Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012 by Lý Tưởng Người Việt

VK-VK-610x320

Tin cập nhật về vụ án Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình thành viên của Tuổi Trẻ Yêu Nước. (www.tuoitreyeunuoc.com)

Tuổi Trẻ Yêu Nước xin cập nhật tin tức về vụ xử hai thành viên Tuổi Trẻ Yêu Nước là nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình và Việt Khang như sau:

1) Trần Vũ Anh Bình và Việt Khang là hai thành viên cuả Tuổi Trẻ Yêu Nước nên cái gọi là "Viện Kiểm Sát Thành Phố Hồ Chí Minh" đem ra xử cùng một phiên tòa vào lúc 8:00 sáng ngày thứ Ba 30 tháng 10, năm 2012 tại địa chỉ 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Nghé, Thành Phố Sài Gòn.

– Nhạc sĩ Hoàng Nhật Thông tức Trần Vũ Anh Bình sẽ được luật sư Nguyễn Văn Miếng thuộc Văn Phòng Luật Hồng Đức, đảm nhận biện hộ.

– Nhạc sĩ Việt Khang tức Võ Minh Trí sẽ được luật sư Trần Vũ Hải, Giám đốc Công ty Luật Hà Nội, đảm nhận biện hộ.

2) Cho đến hôm nay, gia đình Trần Vũ Anh Bình  Võ Minh Trí vẫn chưa nhận được thông báo về ngày xử án, điều này nói lên rằng đây là một vụ án nghiêm trọng không cho sự hiện diện của thân nhân như vụ xử blogers Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải.

3) Tuổi Trẻ Yêu Nước chúng tôi khẳng định: Những hành động của anh Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình là hành động của những người yêu nước. Sự việc xét xử thiếu công bằng và không minh bạch là không chấp nhận được trước một thế giới văn minh. Nhà nước Cộng Sản Việt Nam phải chịu tội trước lịch sử.

Trân trọng Thông Báo

Ngày 19 tháng 10, 2012

 Tuổi Trẻ Yêu Nước Hà Nội-Huế-Sài Gòn

by Lý Tưởng Người Việt

Bài thơ của một du sinh VN

TO, NHỎ...... NHỎ, TO

VIỆT NAM là một nước hơi nhỏ .
Trong cái nước hơi nhỏ , có một thủ đô thật to .
Trong thủ đô thật to , có những con đường rất nhỏ .
Trong những con đường rất nhỏ , lại có những căn nhà thật to .
Trong những căn nhà thật to , lại có những cô vợ bé rất nhỏ .
Những cô vợ bé rất nhỏ , lại dành cho những ông quan thật to .
Những ông quan thật to , lại đeo một cái cặp hơi nhỏ .
Những cái cặp hơi nhỏ , thường có những dự án rất to .
Những dự án tuy rất to , nhưng hiệu qủa lại qúa nhỏ
Hiệu qủa qúa nhỏ , nhưng thất thoát lại thật to .
Tuy thất thoát thật to , lại được coi là cái lỗi rất nhỏ .
Vì thế VIỆT NAM ta , từ từ biến thành một đất nước nho nhỏ .
Trong cái đất nước nho nhỏ , lại có những ông lảnh đạo thật to .
Trong những ông lảnh đạo thật to , lại có những cái đầu qúa nhỏ .
Những cái đầu qúa nhỏ , lại có những túi tham thật to .
Những túi tham thật to , lại có những hiểu biết rất nhỏ .
VÀ NHỮNG HIỂU BIẾT RẤT NHỎ ..LẠI ..GÂY HẠI CHO ĐẤT NƯỚC...THẬT TO

MỘT NGƯỜI HẢI NGOẠI TIẾP

NHỎ, TO

Nhỏ to gì thì cũng chỉ là cái ấy

Cái "con tự do" của thằng CÁ thành hồ

Khi cần bự, nó lại xuôi xị

Cho nên dzợ chúng nó ăn no rững mở

Bày chuyện sex massage tập thể

Mướn điếm đực ăn chơi bễ nghễ

"Đảng hội đại" thủ dâm tập thể

Thằng trùm nào cũng như thằng nấy

Toàn bộ "Cá Tra" lẫn 200 lòng tong

Là bầy sâu ăn hại đái nát

Phá tan hoang cái đất nước nầy

Đúng y như lời Sang sâu nói

Mạnh thằng nào, thằng nấy cướp giựt

Cho nên chẳng thằng nào

"Kỷ luật" được thằng nào

Vì lũ chúng, toàn một phường mất dạy

Chúng chỉ là cái "con tự do"

Nhỏ to gì cũng chỉ là con cà...ặt

Thằng Đực Làng Bưng Cầu đặt vè

Nguyễn Nhơn

by Lý Tưởng Người Việt
2012-10-19

Vụ vỡ đập thủy điện Đakrông 3 ở Quảng trị là lời cảnh báo cho hàng trăm công trình thủy điện lớn nhỏ ở Việt Nam, đặc biệt là hệ thống thủy điện bậc thang.

Photo courtesy of baogialai.com

Thân đập Dak Rông bị vỡ. Ảnh chụp hôm 14/10/2012

Che giấu thông tin

Trong những ngày qua, báo chí đưa tin sự cố Đak Rông 3 khá nhiều, nhất là cách thức chủ đầu tư che giấu thông tin, xem thường chính quyền địa phương cũng như tính mạng và tài sản của người dân. Chủ đầu tư cãi chày cãi cối tới khi không còn cách nào khác mới chịu nhìn nhận.

Đak Rông 3 có tổng đầu tư hơn 210 tỷ đồng, hoàn thành sau 2 năm thi công với hai tổ máy công suất tổng cộng 8MW và vừa được tổ chức nghiệm thu đưa vào vận hành chính thức phát điện thương mại, hòa lưới điện quốc gia hôm 25/9/2012. Đập cao 20 mét dài 146 mét dung tích hồ chứa 3.400.000 mét khối do Công ty tư cổ phần thủy điện Trường Sơn ở Đồng Hới làm chủ đầu tư. Đập bị vỡ từ sáng 7/10 nhưng thông tin bị ém nhẹm tới 13/10 mới được nhìn nhận và công bố. Rất may chỉ có thiệt hại hoa màu, không có tổn thất nhân mạng trong vụ vỡ đập này.

Trả lời Nam Nguyên vào tối 18/10, GSTS Vũ Trọng Hồng nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy lợi, Chủ tịch Hội Thủy Lợi Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

Sau khi xem các bức ảnh thì cái chính là thủ tục cho phép tích nước là chưa làm đúng. Bởi vì đoạn đó tôi xem ảnh chưa xây xong, chắn tạm tấm bê tông phía trước mà đàng sau không có những ngăn cho tích nước thì lũ về là vỡ thôi. Điểm quan trọng nhất là do Hội đồng Nghiệm thu Cơ sở đã làm không đúng thủ tục, bởi vì muốn tích nước thì phải xây dựng xong công trình.

Chỉ cần đọc tựa bài của một số báo điện tử đã thấy vấn đề đầy bức xúc. Lao Động giật tít "Vỡ đập thủy điện Đak Rông 3 sau 15 ngày hòa lưới điện quốc gia" bài kế tiếp "Vỡ đập thủy điện Đak Rông 3: Lộ bê tông trộn đất và gỗ mục" và bài thứ ba "Không cơ quan nào biết chất lượng công trình thủy điện nhỏ." Trong khi đó Thanh Niên có tựa bài khá ấn tượng "Ém nhẹm thông tin vỡ đập thủy điện"; Báo Dân Trí chạy tít đầy bức xúc "Vỡ đập thủy điện Đak Rông 3: Không thể đổ lỗi cho thiên tai!" Còn Nông Nghiệp Việt Nam thì ghi nhận sự kiện "Vỡ đập thủy điện Đak Rông 3: Chưa di dời dân đã tích nước hồ."

Trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển thủy điện ồ ạt đặc biệt là thủy điện vừa và nhỏ với sự tham gia của các nhà đầu tư không chuyên ngành. Qua sự kiện Đak Rông 3 GSTS Vũ Trọng Hồng nhận định:

Trong việc đầu tư thường có sự cạnh tranh nhau, người đầu tư muốn làm nhanh để mau thu hồi vốn, nhưng đối với người quản lý phải đảm bảo công trình đầu tư phải đúng luật, tức phải đảm bảo chất lượng. Tôi nghĩ là chúng ta chưa tổng kết hết được các công trình nhỏ, nhưng trong một số công trình vẫn xảy ra chuyện là nhà đầu tư vẫn muốn có lợi nhuận sớm.

Điểm quan trọng nhất là do Hội đồng Nghiệm thu Cơ sở đã làm không đúng thủ tục, bởi vì muốn tích nước thì phải xây dựng xong công trình.
GSTS Vũ Trọng Hồng

Việc Đak Rông 3 tích nước sớm đấy là do muốn có lợi nhuận cao. Tôi được biết miền Trung đang có rất nhiều thủy điện nhỏ và đã hoàn thành, theo tôi Đak Rông 3 là một bài học và đề nghị các tỉnh có công trình này phải có đề xuất ra những chương trình kiểm tra đánh giá xem xét, không được để chủ đầu tư tùy tiện như vậy.

Theo báo mạng Nông Nghiệp VN, nhánh sông Đak Rông từ Tà Rụt chảy về xã Đak Rông theo hướng Nam Bắc dài hơn 60km nhưng gánh trên mình 4 đập thủy điện theo dạng bậc thang trải dài từ phía xã Tà Rụt ra tới cầu Đak Rông thuộc huyện Đak Rông tỉnh Quảng Trị. Trong đó, đập thủy điện Đak Rông 3 nằm ở giữa, phía trên là thủy điện Đak Rông 1, phía dưới là thủy điện Đak Rông 4 và 2 đang xây dựng. Sự cố vỡ đập thủy điện Đak Rông 3 như lời cảnh báo nghiêm khắc cho nhiều công trình thủy điện khác, lơ là với an toàn hồ đập, chính là lơ là với tính mạng của người dân.

Sai quy trình

Untitled-1-250.jpg
Một góc Nhà máy thủy điện Đakrông 3 bên cạnh thân đập bị vỡ. Photo courtesy of vtc.vn
Nhận xét về xu hướng thiết lập thủy điện bậc thang nói chung tiềm ẩn nhiều nguy cơ lợi bất cập hại, GSTS Nguyễn Thế Hùng giảng dạy ở khoa xây dựng thủy điện thủy lợi Đại học Bách khoa Đà Nẵng nhận định:

Thủy điện giống như một con dao hai lưỡi, nhất là thủy điện bậc thang cần phải nghiên cứu cho kỹ bởi vì nó có hiệu ứng Domino, nếu lỡ mà đập ở trên bị vỡ có thể tác động dây chuyền làm vỡ những đập ở phía dưới. Hơn nữa tình trạng quá nhiều thủy điện ở thượng lưu, nếu không quản lý lưu vực tổng hợp không đưa về quản lý một mối, để lập chương trình điều tiết lũ liên hồ thì nhiều lúc gây khó cho hạ lưu. Thí dụ khi hạ lưu có mực nước cao và mưa lớn mà các hồ lại thi nhau xả lúc cùng một lúc thì lũ chồng chất làm nước lũ dâng rất nhanh có thể gây thiệt hại nhân mạng và tài sản.

Khảo sát tại hiện trường Đak Rông 3 của phóng viên báo Lao Động trong 2 ngày 13 và 14/10 cho thấy những dấu hiệu nghiệm trọng của tình trạng chất lượng công trình không đảm bảo trước con nước "rất hỗn" của dòng sông Đak Rông. Tại hiện trường, những khối bê tông khổng lồ vỡ ra từ thân đập bị trôi xuống hạ lưu nơi xa nhất chừng vài trăm mét. Bên ngoài những khối bê tông này lòi ra lưa thưa những que sắt, loại lớn nhất là phi 16. Nhà báo Lao Động ghi nhận những que sắt này không có dấu bị kéo đứt, gãy mà đa số còn nguyên vẹn. Điều này cho thấy, sắt được kết cấu cho từng khối bê tông riêng rẽ, chúng không được hàn hoặc tổ chức kết cấu cho toàn bộ thân đập.

Thủy điện giống như một con dao hai lưỡi, nhất là thủy điện bậc thang cần phải nghiên cứu cho kỹ bởi vì nó có hiệu ứng Domino, nếu lỡ mà đập ở trên bị vỡ có thể tác động dây chuyền làm vỡ những đập ở phía dưới.
GSTS Nguyễn Thế Hùng

Vẫn theo Lao Động điện tử, tại những nơi bê tông bị bể ra, bằng mắt thường có thể nhìn thấy nhiều tạp chất gồm đất, gỗ, củi…một số nơi có thể dùng tay bẻ bê tông rời ra từng cục. Ngay dưới chân thân đập, nơi chỉ chịu áp lực nước xối từ trên cao xuống, bê tông cũng bị xói trôi nhiều đoạn, lòi ra những que sắt nhỏ. Còn ngay tại vị trí đáy đập, nơi phần nổi của đập vừa bị cuốn trôi hôm 7/10, cũng chỉ thấy lòi lên những que sắt loại nhỏ. Tờ báo trích lời một người thợ xây dựng, chuyên nhận làm nhà ở cho cư dân địa phương nói rằng, bản thân không phải kỹ sư, nhưng nhìn vào kết cấu sắt trong các khối bê tông và nơi đáy đập, ông nghĩ rằng sắt như vậy vừa ít vừa quá nhỏ, không đủ để giữ hàng trăm tấn bê tông thế này.

Trong cuộc phỏng vấn của Nam Nguyên, GSTS Vũ Trọng Hồng nhận định:

Những bức ảnh người ta nhìn thấy thì đúng là chất lượng bê tông không đạt. Thông thường thủy điện nhỏ không có quản lý của bộ chuyên ngành mà giao xuống địa phương, trong khi địa phương chưa có trình độ chuyên môn để nghiệm thu công trình được. Tôi đang kiến nghị phải xem xét lại qui trình giao thủy điện nhỏ xuống địa phương liệu có đủ khả năng để quản lý hay không?

Chủ đầu tư tùy tiện?

baomoi-250.jpg
Cơ quan chức năng Quảng Trị tại hiện trường đập thủy điện Đakrông 3 bị vỡ. Photo courtesy of baomoi.com.vn
Trong một bài khác đưa lên mạng ngày 17/10, Lao Động điện tử nêu lên một vấn đề bức xúc, "đó là việc không một cơ quan nhà nước thẩm quyền nào biết hoặc quản lý hay chịu trách nhiệm về chất lượng, sự an toàn đập đối với các thủy điện vừa và nhỏ dưới 30 MW." Theo tờ báo thì các nghị định, quyết định của cấp chính phủ hoặc cấp bộ mâu thuẫn, tròng tréo dẫn tới tình trạng như vừa nêu. Nghị định 72 của chính phủ về an toàn đập thủy điện qui định thẩm quyền nghiệm thu để đưa đập vào hoạt động thuộc UBND tỉnh, nhưng thông tư số 34 của Bộ Công thương về quản lý an toàn của công trình thủy điện vừa và nhỏ lại qui định việc nghiệm thu để đưa vào khai thác sử dụng đập là do chủ đầu tư quyết định. Do vậy ông Hoàng Tiến Dũng trưởng phòng quản lý điện năng Sở Công thương Quảng Trị nhìn nhận là Sở không liên quan, không có thông tin, không biết, không được mời tham gia nghiệm thu công trình thủy điện Đak Rông 3.

Vẫn theo Lao Động điện tử, ông Mai Thức, phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị khẳng định: "Toàn bộ từ lập dự án đầu tư phê duyệt, quyết định đơn vị thi công, giám sát, tất tần tật đều do chủ đầu tư tức Cty cổ phần thủy điện Trường Sơn một tay làm cả." Ông Thức nhấn mạnh, UBND tỉnh Quảng Trị, cơ quan chức năng ở địa phương không hay biết gì cả và không loại trừ khả năng chủ đầu tư, đơn vị thi công, giám sát là "người một nhà". Về điểm này theo điều tra của Lao Động, ông Mai Văn Huế, chủ tịch HĐQT Cty cổ phần thủy điện Trường Sơn là chủ đầu tư cũng chính là TGĐ Cty cổ phần Tân Hoàn Cầu là đơn vị thi công. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Mai Thức nói với nhà báo: "vấn đề nghiêm trọng nhất là chủ đầu tư đã đưa đập vào vận hành mà không hề báo cáo cho cơ quan nhà nước thẩm quyền tại địa phương biết."

Toàn bộ từ lập dự án đầu tư phê duyệt, quyết định đơn vị thi công, giám sát, tất tần tật đều do chủ đầu tư tức Cty cổ phần thủy điện Trường Sơn một tay làm cả.
Trích Lao Động điện tử

Báo Dân Trí bản tin trên mạng ngày 17/10 nhận định: "Sau những rắc rối ở Sông Tranh 2 Quảng Nam, sự cố vỡ đập Đak Rông 3 Quảng Trị đang khiến các nhà khoa học lo lắng về độ an toàn của hệ thống thủy điện."

Tờ báo trích lời TS Đào Trọng Tứ, thành viên Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam nhận định rằng: "Trường hợp của thủy điện Đak Rông 3, sự cố vỡ đập chỉ sau 15 ngày hòa lưới điện quốc gia là điều không thể chấp nhận." Vị chuyên gia từng có thời là Phó Tổng Thư ký Ủy ban Sông Mê Kông Việt Nam bày tỏ lo ngại: "Đak Rông 3 là tín hiệu đầu tiên cảnh báo nguy cơ mất an toàn từ những thủy điện nhỏ. Trong khi đó, hiện cả nước có 300 đập vừa và nhỏ, gần 1.000 đập thủy lợi. Nếu gặp thời tiết bất lợi, mưa lũ kéo dài sẽ rất nguy hiểm."

by Lý Tưởng Người Việt

 

usb1 _7_-large-contentTin tổng hợp - Báo chí tại Việt Nam hôm nay loan tin Chủ tịch nhà nước Cộng sản Việt Nam Trương Tấn Sang khẳng định quyết tâm của Đảng trong việc chống tham nhũng, khi yêu cầu cử tri báo cáo cho nhà cầm quyền khi phát hiện tham nhũng, bất kể sự tham nhũng đó xuất phát từ Trung ương hay địa phương. Đương sự cũng nói nếu ai chưa thỏa đáng với những vụtham nhũng đã được xử trước đây thì có thể làm đơn bày tỏ chính kiến của mình, và khẳngđịnh rằng nếu không hoàn thành nhiệm vụ của mình thì đương sự sẽ xin nghỉ việc và thậm chí trả lại nhà cho đảng Cộng sản Việt Nam.
Họ Trương đã có vẻ như đả kích ngầm Thủ tướng Cộng sản Việt Nam là Nguyễn Tấn Dũng khi nói nhà của ông ta chỉ rộng có 50 thước vuông, chứ không phải là một biệt thự đồ sộ như nhà của Nguyễn Tấn Dũng. Trước đó Trương Tấn Sang cũng nhận thiếu sót trong việc không bảo vệ được những người bị trù dập khi tố cáo tham nhũng;đồng thời nhấn mạnh rằng những ai hèn nhát nên rút lui để những người dũng cảm làm việc. Ngay lập tức trên những trang mạng đã xuất hiện những ý kiến về lời nói của Trương Tấn Sang. Một người viết rằng vấnđề là không phải nhân dân sợ hãi không dám tố cáo, mà là vì nhân dân không có súng, trong khi đó những kẻ mà nhân dân muốn tố cáo lại có súng.
Một số những đềnghị được đưa ra nếu họ Trương muốn dùng sức nhân dân loại trừ kẻ đầu sỏ của băng tham nhũng mà đương sự gọi là đồng chí X, là hãy kêu gọi sinh viên, học sinh tổ chức biểu tình hàng loạt chống đồng chí X và băng đảng tham nhũng của ông ta ở những thành phố lớn nhưSaigon, Hà Nội, Đà Nẵng và Huế, và hãy ra lệnh cho bộ đội giữ an ninh cho người biểu tình, không cho công an giải tán. Một quan sát viên về Việt Nam cho rằng những lời kêu gọi của Trương Tấn Sang cho thấy tình hình đấu đá nhau trong đảng vẫn không giảm bớt sau đại hội đảng kỳ 6 và Nguyễn Tấn Dũng vẫn giữ nguyên chức vụ, và tiên đoán rằng Nguyễn Tấn Dũng sẽ không ngồi yên cho Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng muốn làm gì thì làm, sẽ ra tay sớm và sẽ có những tháiđộ phản đòn để bảo vệ uy quyền của mình.

Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2012 by Lý Tưởng Người Việt
Nhà báo Nguyễn Thượng Long (Danlambao)
"87 triệu cái mặt không nhìn thấy mặt
87 triệu cái mồm tình nguyện bịt mồm!"
Chẳng còn ai biết xót thương ai! Chẳng còn ai biết bênh vực ai! Dân tộc đó đang hấp hối vì mất dần nguyên khí. Để dân tộc thoát khỏi hố sâu lụi tàn, không thể nào khác là phải hòa hợp, hòa giải dân tộc thực sự chứ không phải là những xảo thuật chính trị rẻ tiền, phải sớm trả lại cho nhân dân Việt Nam những gì là của nhân dân Việt Nam, phải "Giải Mác-Lê", "Giải Cộng!" và tìm được những người bạn đích thực... chắc chắn dân tộc Việt Nam sẽ "nhi thoát!"...

*
Tôi quyết định bài này vào một ngày thu tháng 10 ảm đạm, lúc đó tôi đang thả bộ trên cây cầu Long Biên, một "Chứng Nhân" xuyên thế kỷ nay đã quá già nua cùng năm tháng. Đi trong gió thu se lạnh đầu mùa, tôi bỗng rùng mình thoáng nghe như trong gió có tiếng ai nghe quá âm u:
"Đêm, cái đêm rút qua gậm cầu
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại
Sóng sông Hồng vỗ bờ hát mãi
Đỏ niềm tin là khúc khải hoàn ca
Không thể nói trời không xanh hơn
Và mắt em xanh khác ngày thường
Khi đoàn quân kéo về mùa thu ấy
Nhịp trống rung ba mươi sáu phố phường
Một sớm thu trong đất thắm hoa vàng
Năm cửa ô xòe năm cánh rộng
Đoàn quân về nhấp nhô như sóng
Những ngôi nhà dường muốn cao thêm
Tháng mười ấy là khúc ca xanh
Khúc ca mở những chiến công đầy.
(Cảm Xúc Tháng Mười – Nguyễn Thành)
Vâng! Thế hệ tôi sinh ra trong những ngày mà "Hồn Tổ Quốc" vẫn còn vẩn vơ vơ vẩn và khi đoàn chiến binh Trung Đoàn Thủ Đô hay là E102 thuộc Sư Đoàn 308 QĐND Việt Nam lặng lẽ rút êm qua gậm cầu Long Biên đêm 17-2-1947, Nhà thơ Chính Hữu rơi những dòng lệ bút hay hơn nhiều những trang chính sử mà tôi đã từng phải học. Chính Hữu viết:
"Đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành rừng rực cháy sau lưng".
Thế hệ tôi không phai mờ những kỷ niệm về một thời như thế và mãi mãi trân quý những con người của một thời như thế. Giờ đây các anh đang nằm nơi đâu trên mảnh đất có quá nhiều đau khổ và nghịch lý này? Các anh sống khôn, thác thiêng nơi đâu về phù hộ độ trì cho dân tộc sớm ra khỏi mê lộ của những điêu linh như lúc này.
Những ngày này, trên các diễn đàn, trên các bục giảng, trên các trang báo lề đảng, người ta không ngừng hô hào học tập và làm theo tấm gương đạo đức của ông Hồ, nhưng trên thực tế người ta lại bảo nhau nằm lòng câu cửa miệng của trùm xã hội đen Năm Cam ngày nào dạy dỗ đệ tử:
"Cái gì không thể mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền".
Một câu nói khơi khơi của một kẻ dưới đáy xã hội như thế, nào ngờ nay lại trúng phóc với nhiều CỤ LỚN khả kính và không ít Trung Ủy, Thứ Trưởng, Bộ Trưởng, Cục Trưởng, Vụ Trưởng, Viện Trưởng, Hiệu Trưởng, Thủ Trưởng, Kế Toán Trưởng... "Mác/Lê" – "Lê/Mác" xủng xoảng đầy túi, đầy lưng... nhưng lại chọn triết lý Anh Năm để soi đường, để vinh thân, phì gia và đẩy lùi mọi giá trị VĂN HÓA - TINH THẦN của dân tộc về thời man khai, mông muội.
Chúng ta cũng đang chứng kiến những đổi ngôi đầy nghịch lý. Ai có thể ngờ người ta có thể dễ dàng đội lên đầu những người nông dân mất đất, bôi lên áo những người Việt Nam vì yêu nước mà đã từng hô to khẩu hiệu "Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam!" giữa đường phố Hà Nội và Sài Gòn dòng chữ: "Những kẻ gây rối!", "Lực lượng thù địch!", "Biểu tình thuê!, Yêu nước thuê!". Những người bị bôi bẩn này, lại mới bị ông Chủ tịch Thảo của Hà Nội coi là đã làm xấu đi hình ảnh thủ đô!
Ai có thể ngờ được binh thư của dân tộc chúng ta, một dân tộc quật cường trước giặc ngoại xâm như thế mà hôm nay lại ghi thêm những chương bài lạ hoắc: Đối phó với bọn giặc đang rất hung bạo với dân tộc mình bằng "biện pháp hòa bình!". Sao lại có một thứ HOÀ BÌNH như thế nhỉ!...

Hội Nghị TW4, Hội Nghị TW 5 đã họp, 14 ông bà trong Bộ Chính Trị đã họp, Hội Nghị TW6 vừa họp xong, 500 ông nghị bà nghị sắp họp... cũng chỉ là những vật vã trong buồng, hoàn toàn không thấy có sự giám sát, can gián nào dù là nhỏ bé nhất của người dân thì đó chỉ là những va đập không tránh khỏi giữa những người cộng sản theo kinh tế thị trường và những người cộng sản cố giữ cái đuôi XHCN hư ảo. Họ có thể bất đồng với nhau về chuyện này, chuyện nọ, nhưng họ cùng một mẫu số chung là những người hoàn toàn thần phục Trung Quốc. Mẫu số chung đó không phải chỉ 4 ông tứ trụ (Trọng-Sang-Hùng-Dũng) mà là toàn BCT, cùng 175 vị Trung Ủy chính thức và 25 vị dự khuyết. Không biết điều gì đã xảy ra lúc bỏ phiếu quyết định số phận ông Dũng mà chiều hôm đó (16-10-2012) ông Trọng lại nghẹn ngào trình ra một kết quả bàng bạc, nhờ nhờ, rất kém thuyết phục.
Có lẽ cuộc họp đặc biệt chưa có tiền lệ này chỉ nhằm hướng tới:
- Quyền và lợi của Đảng thì phải trả cho Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông.
- Quyền và lợi của nước thì phải trả cho Trương Tấn Sang và các cộng sự của ông.
- Quyền và lợi của quốc hội thì trả cho Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Kim Ngân, và 500 ông bà Nghị các cộng sự của ông bà này.
- Quyền và lợi đến với ông Dũng và cộng sự từ nay trở đi không còn được như trước.
- Quyền và lợi đến với Nhân Dân thì vẫn là "KHÔNG CÓ GÌ" là "HÃY ĐỢI ĐẤY".
Ước mơ được nhận lại những gì là của mình như: Thất thoát nghìn tỉ tiền thuế vì vụ này, vạn tỉ vì vụ kia! Quyền "Biết-Bàn-Làm-Kiểm tra", Quyền sở hữu đất đai! Các quyền tự do tối thiểu đã quy định trong Điều 69 Hiến Pháp! Quyền con cháu đi học không phải chạy tiền thầy cô! Quyền ốm đau đi viện không phải chậy bác sĩ! Quyền không phải chậy CSGT khi đi lại! Quyền được sống trong môi trường an toàn, được thở không khí sạch, được uống nước sạch, ăn thực phẩm sạch! Quyền được yêu nước... vẫn chỉ là ước mơ đối với người Việt Nam.

Xã hội Việt Nam chưa có được sự sòng phẳng: "Trả cho Xe da những gì của Xe da!" thì "Cũng trả cho Prô-mê-tê những gì của Prô-mê-tê!" cho nên những bất công, oan khuất đã đến với cụ bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, đến với cụ ông Đặng Văn Hướng thân phụ ông Đặng Văn Việt, đến với những người "Nhân Văn Giai Phẩm - Xét Lại chống đảng", đến với biết bao Trí Thức, Nhân Sĩ, biết bao người dân đã chết oan trong CCRĐ, chết mỏi mòn trên những "Pháp Trường Trắng - nơi không có đầu rơi, không có máu chảy nhưng có nhiều xác người" (Nguyễn Tuân)... chết nhiều năm sau cơn "Thổ Cải" có tâm chấn từ nước ngoài này, kể cả hôm nay đang có một danh sách ngày càng dài thêm những người Việt Nam vì yêu nước, vì muốn có một Việt Nam không dị thường trong con mắt nhân loại văn minh mà phải vướng vòng lao lý... họ tiếp tục chưa được minh oan, chưa được siêu thoát khi họ qua đời trong lao tù đày đọa.
Gần đây, khi làn sóng bài Tầu trong dân chúng lên cao, qua tình tiết ông Nguyễn Tấn Dũng cho các con trai đi du học ở các nước tư bản đầu sỏ, lại gả ái nữ Thanh Phượng cho con một đại gia, quan chức VNCH đang tị nạn ở Hoa Kỳ... có người đã vội giới thiệu ông Dũng là một quan chức bài Tầu, thân Phương Tây(!?). Là người thân Phương Tây! Sao ông Dũng lại bỏ tù Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Vi Đức Hồi, Điếu Cầy, Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim, Nguyễn Xuân Nghĩa, Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải... những án phạt nặng nề đến thế! Đàn áp dân chủ, đàn áp báo lề dân, đàn áp dân oan, đàn áp tôn giáo, đàn áp biểu tình yêu nước dữ dội đến thế!? Giới thiệu ông Dũng như thế khác gì là báo hại ông Dũng!

"Hùm Xám" Đường 4 Đặng Văn Việt nay đã 94 tuổi.

Trong một giai đoạn, tinh thần xã hội đang có vấn đề rất không bình thường, thì những chiến công, chiến tích qua đánh đấm từ hơn 60 năm trước dù có hoành tráng đến thế nào, dù Đặng Văn Việt được sánh với cả thiên tài quân sự Nã Phá Luân của Pháp Quốc, sánh với Ku Tu Dốp của nước Nga, dù bị đối xử bất công đến thế nào! Có lẽ chẳng còn mấy ai rung động nữa. Một dân tộc ra ngõ gặp anh hùng, từng đánh thắng hầu hết các đế quốc, một dân tộc đã từng là lương tâm của thời đại... mà nay lại:
"87 triệu cái mặt không nhìn thấy mặt
87 triệu cái mồm tình nguyện bịt mồm!". (!?)
Chẳng còn ai biết xót thương ai! Chẳng còn ai biết bênh vực ai! Dân tộc đó đang hấp hối vì mất dần nguyên khí. Để dân tộc thoát khỏi hố sâu lụi tàn, không thể nào khác là phải hòa hợp, hòa giải dân tộc thực sự chứ không phải là những xảo thuật chính trị rẻ tiền, phải sớm trả lại cho nhân dân Việt Nam những gì là của nhân dân Việt Nam, phải "Giải Mác-Lê", "Giải Cộng!" và tìm được những người bạn đích thực... chắc chắn dân tộc Việt Nam sẽ "nhi thoát!" như những gì mà Đại Tá Lê Hồng Hà nguyên chánh Văn Phòng Bộ công an, nguyên Ủy Viên Đảng Đoàn Bộ công an, Học giả Hà Sĩ Phu, Học giả Nguyễn Gia Kiểng, Nhà Báo Bùi Tín, Nhà Văn Huệ Chi, Nhà Văn Phạm Đình Trọng, Nhà Văn Trần Mạnh Hảo, Nhạc Sĩ Tô Hải, Thứ Trưởng Bộ Thủy Lợi Trần Nhơn, Luật Sư Trần Lâm, Nhà Giáo Vi Đức Hồi, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn... cùng rất nhiều người Việt Nam yêu nước khác ở trong và ngoài nước bằng sở học đầy đủ, trải nghiệm sống đa chiều, ý thức trách nhiệm với đất nước, với nhân dân Việt Nam là dồi dào... họ đã hơn một lần thẳng thắn nói lời cảnh báo.
Ngày uống nước nhớ nguồn của năm 2012 đã đi qua, lại một ngày thành lập Quân Đội nữa sắp đến, nhiều lúc tôi cứ bâng khuâng với tạp niệm: "Không biết ông Đại Tướng - Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh, cùng thế hệ với tôi, ông Thượng Tướng - Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh sinh sau tôi gần cả một thập niên, những võ tướng Quảng Lạc này đang đeo trên vai những chiếc lon cao vời vợi so với Trung Tá "Hùm Xám" Đặng Văn Việt nay đã 94 mùa lá rụng. Không biết ông Thanh, ông Vịnh cùng các ông lớn khác được nhắc đến tên trong bài viết này, có đọc được những dòng chữ này không nhỉ! Nếu có đọc thì... không biết các ông có "Một Thoáng Ăn Năn" muộn màng nào không? Trong khi đó... buồn thay! Chúng ta đang lần lần chứng kiến sự lên ngôi của những giá trị lộn ngược mà chẳng ai có thể ngờ.
Bên Kia Sông Đuống một ngày thu tháng 10 – 2012.
Nhà Báo Nguyễn Thượng Long
danlambaovn.blogspot.com
- Nguyên giáo viên dậy Địa Lý của Hoà Bình và Hà Tây
- Nguyên Thanh Tra Giáo Dục kiêm nhiệm Hà Tây.
- Người Đương Thời GD – ĐT Việt Nam 2006.
- Ứng cử ĐBQH XII.
- Giải thưởng Nhân Quyền Hellman - Hammett 2009
- Nơi ở: Văn La – Phú La – Hà Đông – Hà Nội.
- ĐT: 0433521066 & 01652323836
- Email: nguyenthuonglong571@gmail.com
___________________________________________
Tài liệu tham khảo:
- Lời phi lộ (Về cuốn: "Thăng trầm một cuộc đời" của Đặng Văn Việt)
- Hình ảnh Đặng Văn Việt trong con mắt nhà báo Nhật Hoa Khanh.
- Thư ngỏ của Anh hùng quân đội La Văn Cầu gửi Bộ Trưởng quốc Phòng và Chủ Nhiệm TCCT.
by Lý Tưởng Người Việt
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Thưa các bạn, là một người trẻ tuổi, chưa một lần được biết đến ngôi trường của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cũng chưa từng được sống dưới chế độ tự do non trẻ đó, tuy nhiên qua nhiều sách báo, tài liệu và nhân chứng sống, cộng với những suy nghĩ của mình, tôi nhận thấy một điều đó là một chế độ, một nhà nước khác hẳn với những lời tuyên truyền của cộng sản.
Có một câu hỏi làm tôi day dứt gần 10 năm trời khiến tôi phải tự mình đi tìm câu trả lời cho nó đó là: "Tại sao một chế độ thối nát, được quy chụp là Ngụy quân, ngụy quyền lại được người dân thương nhớ, tiếc nuối?". Và cuối cùng tôi cũng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó trong bài này đó là "Việt Nam Cộng Hòa chỉ là nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam".

Vì sao tôi nói vậy? Vì không có một chế độ xấu xa nào mà hàng triệu công dân của nó ở Hải ngoại lẫn những người vẫn còn ở lại trong nước đã từng sống trong chế độ đó và thân nhân họ, thậm chí những người miền Bắc có tư duy đều thương tiếc. Con người ta có một tâm lý chung đó là luôn muốn quên đi cái dĩ vãng xấu xa, không tốt đẹp. Vậy khi hàng triệu người dù cho phải ly tán vẫn nhớ về nó thì đó không thể là điều xấu xa. Đó chính là câu trả lời chính xác nhất.
Thật ra bất cứ một xã hội nào cũng có mặt hạn chế, ngay cả nước Mỹ nhân bản và dân chủ hiện nay cũng còn nhiều mặt cần sửa đổi. Việt Nam Cộng Hòa không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định thì những hạn chế đó sẽ dần khắc phục theo thời gian và trong cùng một thời điểm lịch sử hay thậm chí ngay cả với xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện tại thì VNCH xứng đáng dân chủ gấp vạn lần thật sự chứ không nói dối trơ trẻn của bà Doan. Đó là lý do tôi viết bài này để chứng minh cho bạn đọc những sự thật về một nhà nước dân chủ non trẻ nhưng đã phải chịu chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam.
Tôi viết bài này xin giành tặng cho tất cả bạn đọc với mong muốn:
Với những người yêu VNCH dù đã từng sống hay chỉ biết đến qua sách vở thì như một lời khẳng định chắc chắn rằng những gì họ đã yêu mến không hề nhầm lẫn.
Với những người bị lừa dối hi sinh cho đảng cộng sản như thế hệ cha ông tôi thì như một lời chân tình để giúp họ thật sự nhận ra bản chất của đảng cộng sản VN và ông Hồ đã lừa dối họ bao lâu này.
Với những người còn vì miếng ăn mà cố gắng lừa bịp dân tộc hãy tỉnh lại đi, sự thật không thể bị bưng bít được mãi. Đừng tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân nữa, hãy để cho lương tâm con người lên tiếng trong tâm hồn mình.
Phần 1: Những sự thật về Việt Nam Cộng Hòa
A. Mỹ không hề xâm lược Việt Nam:
Trong bài "Những sự thật cần phải biết - Sự thật về Đại thắng mùa xuân 1975" tôi đã chứng minh thất bại của VNCH không phải do hèn kém như cộng sản bịa đặt. Họ bị đồng minh bỏ rơi và bị ép phải chết yểu trong bàn cờ chính trị Mỹ-Trung cộng-Liên Xô. Mỹ cũng có lỗi của mình trong việc bỏ rơi đồng minh nhưng cũng nên biết rằng nước Mỹ cần phải tự cứu mình trong lĩnh vực kinh tế và cũng do chính sách nhân bản, không muốn lún sâu chiến tranh, đồng thời phần nào đấy là việc họ để cho chính bản thân những người dân Việt Nam nhận ra sự thật về cộng sản.
Tuy nhiên có một điều rất quan trọng mà tôi phải khẳng định đó là Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền để lừa bịp lòng yêu nước của nhân dân ta. Tại sao tôi có thể khẳng định điều này? Xin được trình bày như sau.
Thứ nhất, cho đến giờ phút này dù bất cứ ai cũng có thể thấy người Mỹ đến Việt Nam không lấy của người Việt Nam dù chỉ là một mm đất đai, hải đảo. Thậm chí họ còn giúp chúng ta xây dựng một Sài Gòn tự do và phồn vinh mà ở thời điểm trước năm 1975 là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngay cả Singapore hay HongKong lúc ấy còn phải xếp hàng từ xa. Vậy thì người Mỹ xâm lược gì ở Việt Nam? Đất không lấy, một giọt dầu cũng không? Trung cộng trong khi đó thì sao? Trung cộng đã lấy Hoàng Sa - Trường Sa "nhờ" công hàm bán nước 1958 của ông Chủ tịch nước Hồ Chí Minh và ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng (xin xem thêm "Những sự thật không thể chối bỏ - phần 2 - Hồ Chí Minh và vai trò trong công hàm 1958"). Và còn hàng trăm km biên giới ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hay Boxit Tây Nguyên. Ai xâm lược đây? Người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản vẫn rêu rao, mà kẻ xâm lược nước ta chính là "Đồng chí 16 chữ vàng, 4 tốt, tri ân sâu nặng" của đảng cộng sản Việt Nam. Đây cũng là điều cho thấy đảng cộng sản ngậm máu phun người đối với người Mỹ.
Thứ hai, nếu nói người Mỹ xâm lược Việt Nam thì có nghĩa là họ phải đổ quân đội vào Việt Nam trước khi đảng cộng sản để lại quân du kích và cán bộ tại VNCH để nằm vùng và khủng bố nhân dân miền Nam. Nhưng thực tế lại trái ngược lại. Xin quay lại "Những sự thật không thể chối - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!" bạn đọc sẽ thấy rõ.
Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền:

"Mặt trận Giải phóng Miền Nam" thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu "đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước".


Nhưng thực chất thì sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá...
Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đình Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH (đã chứng minh trong "Những sự thật không thể chối - phần 3 - Bác, đảng đã bán những gì và để làm gì?"). Vậy thì vào thời điểm 20.12.1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống? Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái gì vào năm 1960? Chính sự mâu thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho ta thấy bản chất nói dối, lật lọng trong việc kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam và cho thấy việc vu khống cho người Mỹ xâm lược Việt Nam là vô lý.
Thứ ba, hãy nghe người Liên Xô nói về việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam để thấy người anh cả của đảng cộng sản Việt Nam biết rõ người Mỹ không phải vào Việt Nam "xâm lược" như cách tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên "Một bước đi lớn" – bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô (đã giới thiệu ở bài "Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 -Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!" có đoạn ở 128:
"Người Mỹ chắc chắn không xâm lược Việt Nam như cách người Pháp thực dân làm trước năm 1945 nhưng Việt Nam phải là một trong những tiền đồn ngăn cản chủ nghĩa tư bản ở Á Châu bao gồm Bắc Triều Tiên, Trung Hoa, Afghanistan..."

Thì ra người Liên Xô với những con mắt lão luyện của tình báo KGB đâu có cho rằng người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách người Pháp thực dân. Người Liên Xô chỉ lo ngại cho chủ nghĩa cộng sản của họ bị người Mỹ đánh bại chứ họ không nói là người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách cộng sản tuyên truyền. Đó là do chính sách ngậm máu phun người của cộng sản nhằm lừa gạt hàng triệu thanh niên bỏ xác vì quyền lợi của chóp bu cộng sản mà thôi. Đó chính là một trong những chiêu bài núp bóng "Giải phóng dân tộc" mà ông Hồ cùng đảng cộng sản thực hiện để nhuộm đỏ Việt Nam cho âm mưu của Trung cộng.
Thứ tư, thật ra mong muốn người Mỹ vào Việt Nam đổ quân để tạo cớ người Mỹ xâm lược Việt Nam cũng nằm trong âm mưu của Trung cộng chỉ đạo cho ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam thực hiện. Trong cuốn sách "MAO: The Unknown Story" của tác giả Jung Chang và Jon Halliday được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House xuất bản, ở trang 470 có đoạn:

"Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam…"
Thế là đúng ra năm 1963, Trung cộng cũng nhận thấy người Mỹ chỉ có 15000 cố vấn mà thôi. Và chính Mao muốn ông Hồ phải "tạo tình huống" để người Mỹ phải đổ quân vào Việt Nam. Đó chính là việc cố tình tạo ra "kẻ thù" xâm lược để có cớ đánh VNCH và đổ tội cho người Mỹ xâm lược Việt Nam của Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh.
Thứ năm, thêm một đồng minh của VNDCCH khẳng định người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản tuyên truyền cho thấy những gì chúng ta đã và đang được nghe đảng cộng sản chỉ là lừa bịp. Trong cuốn sách có tên "Đối nghịch" của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở bài "Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?"). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 187 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội dung trích như sau:

"Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn lũ người độc ác của chúng ta trước đây. Nhưng họ phải đổ quân vào vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác, Lê Nin…"

Tác giả cộng sản Pháp này rất trung thực trong việc đánh giá người Mỹ không xâm lược Việt Nam như chính thực dân Pháp trước năm 45 mà họ chỉ vào Việt Nam trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô.

Kết luận: Một kẻ đi xâm lược không thể là kẻ đổ quân vào sau khi đồng minh của họ bị khủng bố. Người Mỹ chỉ đổ quân vào để giúp đồng minh chống lại chủ nghĩa cộng sản bạo tàn và độc tài. Người Mỹ chỉ là một "kẻ thù" được dựng lên với mục đích lừa dối dân tộc trong chiêu bài "Chống Mỹ cứu nước" của đảng cộng sản. Việc tạo ra một kẻ "xâm lược" giả tưởng này không khác gì việc người ta cố tình dựng lên một hình ảnh "thế lực thù địch" để nói về đội ngũ đấu tranh dân chủ hiện nay ở Việt Nam hay bóng ma "thế lực thù địch" đang làm đảng "tự diễn biến". Một kẻ đi xâm lược không thể không áp bức, bóc lột và lấy đất đai, tài nguyên của chúng ta. Người Mỹ thì không làm điều đó, vậy họ không thể là kẻ xâm lược.
Người Mỹ đến Việt Nam với mục đích chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên thế giới và giúp VNCH chống lại làn sóng khủng bố của đảng cộng sản gieo rắc tại Miền Nam. Họ không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền, họ cũng là nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản Việt Nam.
B. Việt Nam Cộng Hòa không phải là chế độ Ngụy Quân, Ngụy Quyền:
Nếu không có kẻ xâm lược thì làm gì có kẻ làm tay sai "ngụy quân, ngụy quyền"? Như phần A tôi đã chứng minh những tác giả trung lập và ngay cả những người cộng sản Pháp, Liên Xô trong những nghiên cứu nghiêm túc của mình đã công nhận người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam đúng nghĩa. Vậy thì những người đồng minh của họ là VNCH có phải là tay sai bán nước như cộng sản nhồi nhét vào đầu chúng ta hay không? Không. Hoàn toàn không phải. Đó là một chế độ dân chủ non trẻ nhưng mang trong mình những tư tưởng và ý niệm tốt đẹp cho nhân dân. Tôi xin khẳng định thông qua phần B này.
Nói như bà Dương Thu Hương một nữ văn sĩ miền Bắc theo đoàn quân của CS Bắc Việt vào Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975 thì "Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt nam phạm phải..." Và chính ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng của CHXHCNVN cũng phải thốt lên cái ngày 30/4 là ngày mà VNCH chính thức mất đi trên danh nghĩa nhưng còn mãi tồn tại trong lòng người yêu dân chủ, tự do "Ngày của triệu người buồn."
1. VNCH có nền kinh tế phát triển hơn hẳn VNDCCH:
Tại miền Nam dưới sự lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm, cùng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nhằm khôi phục kinh tế và nâng cao dân trí, trong thời điểm miền Bắc có cải cách ruộng đất gây tai họa thì miền Nam cũng có Cải cách điền địa và "Người cày có ruộng" mang lại niềm vui cho nhân dân. Chính vì có những chính sách hợp lý, chế độ dân chủ nên nửa trong của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng. Bằng chứng là Sài Gòn được coi là "Hòn Ngọc Viễn Đông".
Ngay sau khi ông Diệm bị giết hại thì nền Đệ nhị Cộng hòa cũng đã có những nối tiếp nền Đệ nhất Cộng hòa để đem lại đời sống no ấm cho nhân dân miền Nam. Dù có khó khăn do chiến tranh liên miên, đảng cộng sản cho quân du kích nằm vùng đặt bom, phá đường, tài sát dân lành thì nền kinh tế vẫn được duy trì một đời sống hơn hẳn so với VNDCCH. Bạn đọc hãy cùng tôi điểm lại những tài liệu để thấy sự thật này.
- Giai đoạn 1954-1956: Công nghiệp khá nghèo nàn với số lượng nhà máy ít ỏi có từ thời Pháp thuộc.
- Giai đoạn 1957-1967: là giai đoạn bùng nổ của công nghiệp nhờ chính sách công nghiệp tích cực của chính quyền và nhờ các biện pháp bảo hộ nền công nghiệp trong nước.
- Giai đoạn 1967-1972: có sự phân hóa rõ rệt giữa các phân ngành. Những phân ngành như sản xuất đường và dệt không được bảo vệ nữa nên bị hàng ngoại tràn ngập bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế biến thực phẩm phục vụ quân nhu, chế biến gỗ, vật liệu xây dựng lại phát triển mạnh. Đặc biệt, ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại. Chính phế thải kim loại của chiến tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ cho ngành luyện kim. Trên cơ sở sự phát triển của ngành luyện kim, ngành gia công kim loại cũng phát triển vượt bậc.
- Giai đoạn sau 1972: Các ngành luyện kim và điện vẫn phát triển với nhiều nhà máy mới được xây dựng. Còn các ngành sản xuất vật liệu xây dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam Cộng Hòa tại thời điểm 1973 cho thấy công nghiệp của Việt Nam Cộng Hòa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặng và hóa chất mới ở trình độ sơ khai. Nguyên liệu cho ngành chế tạo chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.

- Năm 1973, chính phủ đã tổ chức 2 vòng đấu thầu khai thác dầu lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đã tham gia, bất chấp là tình hình an ninh chưa ổn định. Chính phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa. Tới tháng 10, 1974 hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi, một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ. Sau 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh Vietsopetro của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý và khai thác.
Thứ nhất, số liệu và nhận xét trên wiki có links sau:
http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa:
"Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã tích cực triển khai chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước [4]; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961 [5]. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - những đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu còn được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một mức phụ đảm).

Ở nông thôn thì Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là "Cải cách điền địa") được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền dù hơn 100 ha vẫn được phép). Số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng."
Về thu nhập bình quân, theo "số liệu kinh tế - GDP" bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 190USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Trong khi đó 36 năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).
Như vậy rõ ràng sau khi nắm đất nước thì nền kinh tế VNCH đã có những bước phát triển vượt bậc và bước đầu tạo ra dấu ấn cho nhân dân Việt Nam.

Một thời Hòn ngọc Viễn Đông
Thứ hai, năm 1950 nền kinh tế của Đài Loan gần như không có gì đáng kể. Năm 1960 lợi tức đầu người USD170 thua miền Nam lúc đó (190 USD). Năm 2010 Đài Loan có GDP khoảng US$37.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 400 tỉ USD. Năm 1954 kinh tế Hàn quốc thua xa miền Nam lúc đó. Năm 2010 Hàn quốc có GDP khoảng US$20.757/năm. Dự trữ ngoại tệ 311 tỉ USD. Năm 1959 Singapore được tự trị, một quốc gia nghèo, nhỏ bé, thiếu tài nguyên, lúc đó thua miền Nam mọi lĩnh vực. Năm 2010 Singapore có GDP US$43.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 300 tỉ USD. Những con số mà tôi lấy thống kê trích từ "Tạp chí kinh tế Châu Á" năm 2010 bạn đọc có thể kiểm chứng.
Qua những con số biết nói đó chúng ta thấy được gì? Đó là những nước có nền kinh tế vượt xa cả trăm lần CHXHCN Việt Nam hiện nay thì trước năm 1975 họ thua kém VNCH rất nhiều. Vậy mà sau khi "thống nhất" đất nước thì chúng ta có gì? Có chăng chỉ là sự lạc hậu và thua kém. Vậy thì VNCH đâu phải là một chế độ bù nhìn? Họ bù nhìn tại sao lại làm cho thu nhập bình quân của nhân dân cao hơn cả những nước kể trên. Và quan trọng nếu với đà phát triển như con số đã nêu thì nếu còn tồn tại VNCH sẽ là con rồng Châu Á thật sự chứ không phải kiểu rồng đất, rồng tre như CHXHCN Việt Nam ngày nay.
Thứ ba, nhìn chung đa phần dân chúng thời đó vẫn sống ở nông thôn, làm nghề nông là chính. Với chương trình "Người Cày Có Ruộng" đầu thập niên 1970, chính phủ đã chia hằng triệu mẫu ruộng cho nông phu. Đời sống dân chúng cải thiện đáng kể.
Mặc dù miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp nặng, nhưng tiểu thủ công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt vải, kim khí điện máy khá xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu thương cũng sầm uất. Cần kể thêm thái độ của người dân. Nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng, chiếm nhiều cảm tình như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba", bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy người tiêu thụ miền Nam thời đó có tinh thần yểm trợ hàng nội hóa khá cao.
Một thế mạnh nữa của VNCH là thế hệ trí thức, kỹ sư, cán sự được huấn luyện kỹ lưỡng, làm việc tận tâm. Về mặt này, VNCH hoàn toàn vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore... Có thống kê cho thấy 3 trong số 4 kỹ sư trong toàn vùng khi đó là công dân Nam Việt nam. Năm 1961, kỹ sư miền Nam tiếp tục đón nhận nhà máy thủy điện Đa Nhim từ Nhật. Từ thời này, các chuyên gia Nam Việt Nam cũng đã manh nha dự án khu chế biến lọc dầu Dung Quất ngày nay.
Nguồn chuyên viên lành nghề, mẫn cán còn giúp thực thi các kế hoạch, khai triển nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa, Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu hỏa ở Vũng Tàu loan ra, VNCH cũng có đủ chuyên viên để thiết lập ngay Tổng Cục Dầu Hỏa.
Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt, hoạt động từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa,
do kiến trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ vẽ mẫu thiết kế.
Thứ tư, theo sách "Lịch sử Kinh tế Việt Nam" 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết:

"Năm 1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu cầu quốc nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có kế hoạch xuất cảng tôm lên đến 30 triệu Usd năm 1975. Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1970, Việt Nam Cộng Hòa có trên 1,200 cây số đường xe lửa, khoảng 20,000 điện thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền hình lớn (ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn và Cần Thơ. Cuối thập niên 1950, VNCH xây xa lộ Biên Hòa ở phía Bắc Sài Gòn, là công trình giao thông công cộng có thể nói tân tiến nhất toàn vùng Đông Nam Á khi đó... Có thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961, Biên Hòa) có lúc sản xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội địa. Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex trình làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm. Hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra lò hơn 540,000 tấn mỗi năm..."
Chính những con số mà chính đảng cộng sản công nhận cũng đã đủ nói lên thực tế không thể chối bỏ đó là VNCH có một nền kinh tế tự do và phát triển ổn định. Ngoài những con số trên chúng ta còn thấy được gì? Đó là: Nhiều người từng sống ở miền Nam trước đây có lẽ vẫn còn nhớ chiếc xe La Dalat, biểu tượng của công nghệ xe hơi non trẻ. Vào thời điểm này, sáng lập viên của hãng xe Hyundai mới chỉ là tiểu thương tại Hàn Quốc. Dù lắp ráp với nhiều phụ tùng ngoại quốc, La Dalat vẫn là chiếc xe hơi đầu tiên mang nhãn "Made in Vietnam", mẫu mã của riêng Việt Nam.
Xe hơi La DaLat trước khách sạn Continetal
Trước 1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện đại đã được đưa về Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Giáo Dục. Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore sắm được vỏn vẹn... 1 chiếc máy tương tự.
Máy tính IBM thời VNCH
Thứ năm, Trung cộng trong nỗ lực phát triển kinh tế và cạnh tranh với Mỹ và âm mưu triệt tiêu nội lực của Việt Nam đã phải thừa nhận. Hãy nghe tác giả Hà Cẩn mà tôi nhiều lần giới thiệu cuốn sách "Mao chủ tịch của tôi" trong loạt bài "Những sự thật không thể chối bỏ". Tác giả thuộc Viện văn học Trung quốc, cho in cuốn sách năm 1997 và tái bản năm 2000, tại trang 222 có đoạn: "Miền Nam Việt Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta..." Tác giả Trung cộng này cũng công nhận sự phát triển của miền Nam về kinh tế và khẳng định đó là bất lợi cho âm mưu Hán hóa mà ông Hồ đang thực hiện theo lệnh Mao. Đây là một điểm khẳng định cho sự thật về nền kinh tế phát triển của VNCH và cũng thêm minh chứng cho âm mưu của Trung cộng và ông Hồ Chí Minh.
Trong khi các con số và tài liệu cho thấy VNCH là nước có nền kinh tế phát triển trong đa số các lĩnh vực thì VNDCCH được cai trị bởi những kẻ độc tài và bạo tàn thì sao?
Thứ nhất, đó là những con số người chết khủng khiếp trong chiến dịch CCRĐ man rợ do ông Hồ Chí Minh chỉ đạo mà tôi đã đề cập trong bài Những sự thật không thể chối bỏ - phần 5 - Nỗi đau Cải Cách. Bên cạnh đó là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu mà nhân dân là những người hứng chịu trực tiếp.
Trên Wiki (http://vi.wikipedia.org/wiki/Cải_cách_ruộng_đất_tại_miền_Bắc_Việt_Nam) có viết:
"Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà."

Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp có sự bất bình thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Trong cuốn "Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ" - NXB Văn hóa của ĐCSVN có đoạn: "Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng."
Ngoài ra, theo tác giả Bernard Fall, một gia đình nông dân bốn người cần có ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).
Thứ hai, kể cả sau khi kết thúc CCRĐ thì nền kinh tế của VNDCCH không sáng sủa và kém xa so với VNCH. Trong cuốn sách được nhà xuất bản Lịch sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995 có tên gọi tạm dịch ra tiếng Việt "Liên Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa được biết" của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, một đảng viên đảng cộng sản Liên Xô và cũng là nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, có đoạn trong trang 197 như sau:

"So với Miền Nam thì người đồng chí Miền Bắc của chúng ta chịu thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu điểm cần phải được sửa chữa của lãnh đạo Miền Bắc mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng thật khó làm điều này vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và theo mô hình của Trung Hoa..."

Đoạn trích cho thấy tác giả người Nga chê nền Kinh tế VNDCCH không bằng VNCH do lạc hậu và theo mô hình Trung cộng. Vậy thì những gì tuyên truyền của đảng cộng sản về một nền kinh tế bị "kìm kẹp" chỉ là một sự bịa đặt nhằm ngậm máu phun người đối với VNCH.
Đường phố VNDCCH
Thứ ba, theo sách "Lịch sử Kinh tế Việt Nam" 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 thì:

"Cho đến 1973 nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ chi dùng cho nhân dân và vẫn phải nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô bột mì, bobo... Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1972, VNDCCH chỉ có trên 500 cây số đường xe lửa, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, 2 đài phát thanh, chưa có máy điện toán..."

Chỉ cần bạn đọc điểm lại những con số trên và xem những con số cùng loại và cũng thời điểm đó đã nêu trên thì VNCH rõ ràng có nền kinh tế, hạ tầng phát triển hơn hẳn VNDCCH.
Kết luận: Một nền kinh tế VNCH phát triển bền vững và có chiều sâu, chiều rộng cho thấy VNCH đã nỗ lực phát triển để đem lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân. Như vậy đây là kết luận đầu tiên cho thấy chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản về một miền Nam khốn khó, chịu kìm kẹp là điều không tưởng.
2. Việt Nam Cộng Hòa – Một đất nước tự do, dân chủ thật sự:
Như ở mục 1 tôi đã chứng minh so với VNDCCH thì VNCH hơn hẳn về mặt kinh tế, đời sống nhân dân. Vậy còn các mặt khác về đời sống, văn hóa, giáo dục và chính trị thì ra sao? Tôi xin trình bày ở mục 2 này.
Thứ nhất, để nói về tự do dân chủ chúng ta có thể thấy rõ nét nhất là văn hóa và biểu tình, tự do lập đoàn thể, hội họp và thậm chí cả chống chính phủ khác hẳn so với VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay là độc tài toàn trị.
Minh chứng rõ nét cho việc này đó là xuất hiện những thành phần cộng sản nằm vùng trong lòng VNCH như ông Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng… Chính quyền VNCH biết rõ họ là cộng sản và biết những hành động của họ làm chống chính quyền. Nhưng họ vẫn được biểu tình, kích động dân chúng theo cộng sản. Điều này trái ngược hẳn với quyền tự do bị chà đạp của nhân dân yêu nước khi tham gia biểu tình chống Trung cộng xâm lược…

Biểu tình tại VNCH

Biểu tình tại CHXHCNVN
Ngoài ra, chúng ta có thể thấy tại VNCH, các bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn vẫn được phép tồn tại. Hay thậm chí các bài hát có nội dung lãng mạn bị đảng cộng sản triệt để cấm đoán vì lo ngại sẽ hỏng mất chính sách tuyên truyền hận thù của cộng sản thì tại VNCH vẫn được tự do ca hát. Đó chính là do chính quyền VNCH tôn trọng quyền tự do tư tưởng và thưởng thức âm nhạc của nhân dân. Xin lấy một ví dụ. Bài hát "Những đồi hoa sim" thực chất là bắt nguồn từ một nhà thơ Miền Bắc và trước khi về quê ở ẩn do không chấp nhận sự thối nát của cộng sản cũng là người theo đảng cộng sản, ông là Hữu Loan nhưng vẫn được các nhạc sỹ của VNCH phổ biến và tự do ca hát. Ngược lại VNDCCH thì tuyên truyền "Không nghe, không dùng văn hóa của Ngụy" Mặc dù những bài hát, bài thơ đó hoàn toàn không có mưu đồ chính trị và giàu tính nhân văn.
Nạn nhân của những nghệ sỹ trong chế độ độc tài nhiều vô kể như nhạc sỹ Tô Hải hay nạn nhân của cái gọi là "Phản cách mạng" Nhân văn Giai Phẩm. Trong khi đó VNCH không có một cuộc thanh trừ nào kiểu như vậy, và quan trọng hơn cả VNCH không hề có một cuộc cách mạng thực chất là CẮT MẠNG người như "Cải cách ruộng đất - long trời lở đất".
Thứ hai, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản "Chủ thuyết của chúng ta" của học giả A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 189: "Nếu cứ tự do như VNCH thì VNDCCH sẽ bị đánh mất chủ thuyết của mình..." Tác giả này đã công nhận VNCH có tự do về tư tưởng và VNDCCH thì ngược lại rất độc tài và quân phiệt chỉ nhằm giữ cho được "Chủ thuyết " cộng sản sai lầm cho mình nhằm cai trị nhân dân ta, đấy nhân dân ta đến cuộc chiến huynh đệ tương tàn (Xin xem thêm "Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!").
Chỉ cần thấy câu: Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm (1954-1967) (Fatherland - Honour - Duty) và Tổ quốc - Công minh - Liêm chính (1967-1975) (Fatherland - Justice - Integrity) của VNCH đặt Tổ quốc lên trên hết cũng đã thấy khác hẳn với "Trung với đảng, hiếu với dân" của CHXHCNVN vì đảng cộng sản đặt lợi ích của mình trên cả nhân dân và chẳng thấy bóng dáng Tổ Quốc đâu cả.
Thứ ba, Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa mang triết lý giáo dục nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn". Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Điều này đã được minh chứng bằng việc học sinh đi học dưới chế độ VNCH không hề mất học phí. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chính và ở các trường đại học cộng đồng). Những con số nêu trên được lấy từ cuốn "Giáo dục Việt Nam" – NXB Giáo dục năm 2001 – cuốn sách của đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản" (humanistic), "dân tộc" (nationalistic), và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967). Theo văn bản phụ lục của hiến pháp VNCH ghi rõ:
"Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này, lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản, xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.

Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới."
Trong khi đó thì ở VNDCCH, học sinh bị nhồi nhét tư tưởng Mỹ "xâm lược" mà thực chất không phải vậy, "bác Hồ yêu nước, cả đời vì nước vì non" mà thực tế ngược lại khi bạn đọc 15 bài "Những sự thật không thể chối bỏ"và hàng trăm ngàn tư liệu, bằng chứng sống lại chứng minh được điều ngược lại. Hay là "yêu nước là phải yêu đảng cộng sản " – một định nghĩa dốt nát và ấu trĩ.
Những bài thơ như của ông Tố Hữu với những câu như "Giết, giết nữa..." lại được nhà trường VNDCCH gieo vào đầu con trẻ ý tưởng giết người ngược hẳn với xu thế nhân bản của thế giới nói chung và VNCH nói riêng.
Trên Website của Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Hà Nam có bài viết (http://phuly.edu.vn/bacho/chuyen83.htm) nói về việc ông Hồ gửi thư cho học sinh nhân ngày 1-6. Trên báo Sự Thật, số 134 ra ngày 1-6-1950, đăng bức thư gửi thiếu nhi toàn quốc nhân ngày 1-6. Ông Hồ có viết: "Song ở các nước tư bản, cha mẹ là người lao động bị bóc lột, thì trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực khổ". Điều này cho thấy đảng cộng sản và ông Hồ chủ trương tuyền truyền bịa đặt ngậm máu phun người về cuộc sống của trẻ em ở những nước dân chủ trong đó có Mỹ và VNCH là bị "bóc lột". Nhìn lại những người lính trẻ bị bắt buộc phải cầm súng khi chưa đủ tuổi thành niên thời trước hay nhìn cảnh tượng của trẻ em đang làm nô lệ tình dục, nô lệ lao động... ở Việt Nam hiện nay mới thấy được tuyên truyền của cộng sản chỉ là bịa đặt nhằm đưa đến một ý thức lệch lạc cho nhân dân.
Thứ tư, từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì:

"Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra."

Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: "the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges").
Như vậy cho thấy ngay cả đảng cộng sản cũng phải thừa nhận nền giáo dục của VNCH chính là cái gương cho họ tự soi vào. Nhưng thực chất họ nói như vậy nhưng lại không làm như vậy chủ yếu chỉ để ngu dân, cai trị độc tài.
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:

"Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục "xã hội chủ nghĩa" (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng..."
Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê:

"Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản."
Thứ tư, ngay từ thời điểm 1960-70 thì cấu trúc của chính phủ VNCH đã đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh ngày hôm nay - Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện). Tự do báo chí thật sự với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so với không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau gần 70 năm trời chứ chưa nói đến VNDCCH cùng thời điểm với VNCH. Vậy thì tự do dân chủ ở đâu?
Quốc hội VNCH họp

Nghị gật CHXHCNVN
Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính quyền đi theo chủ nghĩa Cần lao Nhân vị. Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng Hòa đã có một số thành tựu: xã hội ổn định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế...
Hiến pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất hoàn chỉnh, theo mô hình của nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa đã thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến. Quốc hội có những quyền hạn sau: Biểu quyết các đạo luật; Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế; Quyết định việc tuyên chiến và nghị hòa, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chính sách quốc gia; Hợp thức hóa sự đắc cử của dân biểu hoặc nghị sĩ quốc hội; Quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể. Chính phủ với đa số 2/3 tổng số dân biểu và nghị sĩ. Nếu Tổng thống không có lý do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp Tổng thống khước từ, Quốc hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số 3/4 tổng số dân biểu và nghị sĩ.
Tính đến năm 1975 thì Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập ngoại giao với 87 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức.
(Bạn đọc có thể tham khảo ở links sau:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)
Chúng ta có thể thấy gì khi VNCH có hàng chục đảng phái, tổ chức hoạt động chính trị còn ngược lại VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay chỉ có 1 đảng độc tài duy nhất hoạt động với tiêu chỉ "Bỏ điều 4 hiến pháp là tự sát". Ngoài ra ta phải thấy rõ ràng sự tự do trong bầu cử của VNCH khác hẳn với bầu cử theo sự sắp đặt của VNDCCH hay CHXHCNVN. Đó chính là sự tự do và dân chủ thật sự khác với tuyên truyền giả hiệu, ngậm máu phun người.
Thứ năm, một tác giả của Trung cộng khác là Vương Văn khi viết cuốn sách "Tư bản hay dân chủ""xuất bản tại Trung cộng năm 2002 cũng nói về VNCH như sau tại trang 92:

"Dân chủ trong chủ nghĩa tư bản cho nhân dân hưởng nhiều cái lợi nhưng lại là sự bất lợi cho chính quyền vì chính quyền không thể kiểm soát nổi nhân dân tự do. Hãy nhìn Việt Nam Cộng hòa ở Miền Nam Việt Nam làm tấm gương..."
Tác giả Trung cộng này cho rằng VNCH chính là một chính quyền tự do, dân chủ nên đã bị thất bại. Điều này không sai nhưng chưa đủ. Vì sao? Vì thực chất cái đúng là tác giả công nhận sự tự do dân chủ thật sự của VNCH. Tuy nhiên tác giả nên nhớ một điều rằng chính đảng cộng sản Việt Nam đã lợi dụng sự tự do và dân chủ này để gây chia rẽ, dẫn đến sự sụp đổ của một nền dân chủ non trẻ nhưng đã làm được những điều tốt đẹp lớn lao cho nhân dân miền Nam.
Thứ sáu, một khi để nói là VNCH là tay sai của Mỹ, là bán nước, là Ngụy quân, ngụy quyền thì phải có bằng chứng rõ ràng. Nhưng như phần A tôi đã chứng minh Mỹ không hề xâm lược Việt nam, không lấy đất, biển đảo, tài nguyên của Việt Nam, cũng không sưu cao thuế nặng như Thực dân Pháp trước 1945 thì VNCH đâu có bán nước, đâu có là "tay sai" như đảng cộng sản tuyên truyền?.
Quan trọng hơn, tại sao một chế độ bị vu cáo là "ngụy" lại anh dũng chống trả quân thù Trung cộng cướp nước còn CHXHCNVN lại "tri ân" giặc Tầu? Để mặc ngư dân bị đánh đập ngay trên biển đảo quê hương mình? Ai là Ngụy thì thực chất bạn đọc cũng tự tìm cho mình câu trả lời rồi.



VNCH và Hoàng Sa


CHXHCNVN và Hoàng Sa
Thứ bảy, Tự do tôn giáo cũng là vấn đề được đề cập tại VNCH. Chúng ta có thể thấy các cuộc biểu tình rầm rộ của giới tăng ni, cái chết của vị sư theo cộng sản Thích Quảng Đức... cho thấy chính quyền VNCH không hề đối xử phân biệt với các tôn giáo, không có hiện tượng đập phá nhà thờ như ở Thái Hà... hiện nay.
Để khẳng định điều này, xin trích lời của tác giả người Đông Đức đã giới thiệu ở trên "Chủ thuyết của chúng ta" của học giả A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 193:"Tự do tôn giáo ở Miền Nam là sự tổng hòa cân bằng giữa các tôn giáo nhưng lại là điểm tựa cho đảng cộng sản ở Việt Nam lợi dụng để chiến thắng chính quyền ông Diệm, ông Thiệu..."
Thứ tám, một nét tiêu biểu đó là lĩnh vực y tế của VNCH tại thời điểm trước năm 1975 đã hơn hẳn CHXHCNVN hiện nay chứ đừng nói đến VNDCCH trước kia sau mấy chục năm "thống nhất, giải phóng " ảo tưởng. Cụ thể VNCH vào thời điểm đó xây dựng được nhiều bệnh viện hiện đại của Đông Nam Á và không có cảnh 2-3 người nằm 1 giường như thiên đường XHCN. Mời bạn đọc tham khảo links sau nói về y tế VNCH
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Y_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a):
"Dịch vụ y tế bắt đầu ở cấp xã. Mỗi xã có một ủy viên y tế và một nữ hộ sinh, thường gọi là "cô đỡ" trông coi và giúp đỡ sản phụ ở thôn quê. Ủy viên y tế làm việc dưới sự giám sát của Hội đồng xã.

Ở cấp quận thì có Chi y tế dưới sự điều hành của cán sự y tế. Mỗi tỉnh thì có một bệnh việnthuộc Ty y tế. Trưởng ty y tế là một bác sĩ phụ trách chương trình y tế trong tỉnh. Giám đốc bệnh viện cũng là một bác sĩ y khoa. Bệnh nhân nhập viện vào các bệnh viện công cộng không phải trả tiền. Những bệnh viện công cộng lớn gồm có Bệnh viện Chợ Rẫy, Vì Dân, Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, và Từ Dũ.

Tổng số bệnh viện dân sự toàn quốc vào năm 1965 là 101 cơ sở với 25.000 giường. Riêng thủ đô Sài Gòn có 11 bệnh viện công cộng cung cấp gần 5.000 giường. Tính vào năm 1970 thì trên toàn quốc có hơn 570.000 ca nhập viện.

Một số chuyên khoa có bệnh viện riêng như Bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn (220 giường). Khoa tâm thần có ba cơ sở chính: Bệnh viện Chợ Quán ở Sài Gòn, Bệnh viện Huế, và Bệnh viện Nguyễn Văn Hoài ở Biên Hòa.

Nằm ngoài hệ thống của chính phủ là các phòng mạch, dưỡng đường và bệnh viện tư nhân (bốn bệnh viện ở Sài Gòn với hơn 800 giường). Vào giữa thập niên 1960 Việt Nam Cộng hòa có khoảng 800 bác sĩ y khoa. Bệnh viện tư lớn phải kể Bệnh viện Grall và Bệnh viện Saint Paul ở Sài Gòn, Bệnh viện Sùng Chính (200 giường) ở Chợ Lớn "
Còn "thiên đường" bánh vẽ của chúng ta thì sao? Hãy đọc một bài viết từ trang Baomoi.com trích bài trên báo Tuoitre Online của đảng cộng sản Việt Nam (http://www.baomoi.com/Thieu-benh-vien-tai-sao-khong-xay-them/82/7484744.epi)
"Chuyện 3, 4 bệnh nhân nằm chung một giường đã có từ lâu lắm rồi, nhưng thật đáng tiếc khi gần đây bộ trưởng Bộ Y tế mới biết và thấy nỗi khổ nhục của người bệnh. Người dân luôn đặt ra câu hỏi rằng tại sao khi xây các dự án nhà ở, các khách sạn, sân golf... mọc lên nhanh thế nhưng các bệnh viện xây mới lại không có hoặc rất ít (với tiến độ con rùa). Vậy mong các vị đứng đầu hãy quan tâm và trả lời cho cử tri biết... Rất nhiều bệnh viện quá tải, nhất là Bệnh viện Nhi Đồng, Bệnh viện Ung bướu, Bệnh viện Từ Dũ... người ta dễ "phát sợ hơn cả là bệnh" khi nhìn thấy cảnh đông đúc. Quá tải... chắc khoảng... 300% chứ không phải là vừa."
Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP.HCM thường xuyên bị quá tải
Kết luận: VNCH là một nền dân chủ non trẻ nhưng thật sư là dân chủ trong cả tư tưởng, chính trị và tôn giáo, giáo dục... Nó khác xa với tuyên truyền giả tạo của VNDCCH và CHXHCNVN. Nhưng VNCH đã bị đảng cộng sản lừa bịp nhân dân, ngậm máu phun người để tuyên truyền họ là chế độ "Ngụy quân, Ngụy quyền".
Kết luận chung:
Qua các dẫn chứng tôi đã chứng minh hai điều: Mỹ không xâm lược Việt Nam và VNCH rất tự do và dân chủ. Vậy thì luận điệu quy kết cho Mỹ xâm lược Việt Nam là bịa đặt. Và chính vì không có kẻ xâm lược thì làm gì có kẻ làm tay sai bán nước như cách VNDCCH và đảng cộng sản ngậm máu phun người cho VNCH - một chế độ dân chủ non trẻ thật sự.
Dẫu rằng quá khứ đã qua, VNCH trên thực tế đã không còn tồn tại. Nhưng trong lòng những người dân đã từng sống tại miền Nam trước năm 75 và người thân của họ dù sống ở Hải Ngoại hay Việt Nam đều thương tiếc cho VNCH vì họ hiểu rõ sự thật về một xã hội tốt đẹp đang hình thành dần theo năm tháng đã bị chính sách "ngậm máu phun người " của đảng cộng sản Việt nam bức tử. Và trong bản thân chúng tôi, những người sinh ra và lớn lên giữa xã hội toàn trị của đảng cộng sản nhưng cũng đã kịp nhận ra sự thật không phải như đảng cộng sản vẫn tuyên truyền.
Có thể khẳng định một câu ngắn gọn: VNCH không phải là "Ngụy" mà chính VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay chính là Ngụy khi làm tay sai cho Trung cộng, Liên Xô và bức hại dân tộc Việt Nam gần 1 thế kỷ. Nhiệm vụ của chúng ta phải tìm hiểu và trả lại sự thật lịch sử để cho thế hệ sau phải biết và nhân dân hiểu được bản chất xấu xa chuyên "ngậm máu phun người" của đảng cộng sản Việt nam.
Như một lời tri ân từ đáy lòng với những công dân yêu nước VNCH của một công dân trẻ sống trong chế độ độc tài cộng sản!

16/10/2012
Đặng Chí Hùng
danlambaovn.blogspot.com