Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013 by Lý Tưởng Người Việt


Ban Biên Tập ''Lý Tưởng Người Việt'' kính báo và tri ân


Kính thưa quý độc giả, quý cộng tác viên và quý thân hữu,
Trong những tháng gần đây, bọn tin tặc ra sức đánh phá Trang Nhà Lý Tưởng Người Việt. Do đó, trong thư thăm hỏi thân tình và động viên tinh thần, nhiều độc giả và cộng tác viên vô cùng phẫn nộ trước hành động đê hèn của hạng người bất lương ấy vì, đối với quý vị vừa nêu, Trang Nhà là nơi ''Hội Ngộ Tương Phùng'' của người Việt yêu Chính Nghĩa Quốc Gia.
Ban Biên Tập biết ơn tấm lòng của quý vị dành cho Trang Nhà, kính xin quý vị lượng tình thông cảm cho việc xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta.
Trước cảnh ''nguy biến của Sơn Hà Việt Nam'' do bè lũ cộng nô ''quỵ lụy tên Tàu xâm lăng'', Ban Biên Tập LÝ TƯỞNG NGƯỜI VIỆT không thể ''để mình bị bó tay'' như ảo tưởng của bọn cộng nô, mà phải quyết tâm duy trì Trang Nhà bằng sự đóng góp nhiệt tình của quý độc giả, quý cộng tác viên và quý thân hữu như trong những năm tháng trước đây.
Nhờ tin tưởng như thế, Ban Biên Tập vừa ''lập'' được Trang Nhà mới. Do đó, chúng tôi tha thiết kính đề nghị cùng tất cả con dân Lạc Hồng đang tha phương và ở trong nước những việc như sau:
1- Đồng tâm
Thiên hạ khắp năm châu đều quan niệm như lời dạy của Ông Cha chúng ta: ''Hợp quần tạo sức mạnh. Mỗi người mỗi việc, mọi việc tất thành. ''
2- Quyết chí (không sờn lòng)
Noi gương Nhà Giáo đáng kính Nguyễn Bá Học đã lưu lại cho hậu sinh lời dạy tuyệt vời: ''Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.''
3- Tôn thờ Việt Đạo và Chính Nghĩa Dân Tộc
Làm theo lời dạy của Thánh Hiền, chẳng hạn: Lời Di Chúc của Tiền Nhân: Vua Trần Nhân Tông , lời dạy của Lý Thường Kiệt: Nam Quốc Sơn Hà và theo gương của các Vị Anh Hùng chống giặc Tàu xâm lăng. Do đó, chúng ta đồng lòng triệt tiêu thứ định nghĩa phản Việt Đạo như sau: ''Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội.''
Kính thưa quý vị,
Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại, thành hòn núi cao. Kính xin mỗi người góp sức tùy khả năng của mình để sớm khai tử chế độ cộng sản đang thoi thóp, phi nhân, phi pháp, vô thần, vô Việt Đạo, buôn dân, bán nước.
Trang Lý Tưởng Người Việt cố gắng nêu cao ý nghĩa Danh Xưng của mình để đừng phụ lòng yêu nước nơi quý vị.
Trân trọng kính báo, cám ơn và kính chào quý vị.
BBT Lý Tưởng Người Việt


Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013 by Lý Tưởng Người Việt


Lê Phước - Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có rất ít phụ nữ nổi bật trên chính trường. Đấy không phải là bởi vì phụ nữ nước ta không có tài làm chính trị, mà bởi vì ngày xưa phụ nữ luôn bị kềm kẹp trong cái câu “tam tòng tứ đức”, luôn sống trong cái cảnh “khuê môn bất xuất”.

Chính vì thế, nhân vật nữ nào được nổi bật thì ất phải là kiệt xuất lắm. Và cách đây hơn 800 năm, lịch sử Đại Việt đã biết đến một phụ nữ kiệt xuất có tài kinh bang tế thế : Thái Hậu Ỷ Lan.

Về nhân thân của bà Ỷ Lan, còn nhiều điểm chưa rõ. Xem xét các bộ sử liên quan, đại khái bà sinh vào khoảng năm 1044 và mất năm 1117. Tên của bà sử cũ cũng không thống nhất, có thuyết cho rằng bà tên là Lê Khiết Nương, có thuyết thì bảo là Lê Thị Khiết, cũng có thuyết nói là Lê Thị Yến Loan.

Cô gái tựa gốc lan

Lúc chưa vào cung, bà là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở làng Thổ Lỗi (còn có tên là làng Sủi, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Câu chuyện tiến cung của bà khá lãng mạn, và cũng là nguồn gốc của tên Ỷ Lan, cái tên nổi tiếng đến mức mà đời sau không ai còn chú ý đến tên thật của bà nữa. Sử cũ chép về câu chuyện này đại để như sau :

Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063), vua Lý Thánh Tông đã bốn mươi tuổi mà vẫn chưa có con trai để truyền ngôi báu. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, nhà vua vô cùng lo lắng. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua.

Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy có một cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu: “Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ có đâu dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng".

Vua thấy cô gái tuy ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ thì đoan trang dịu dàng, lời nói phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa rành rành. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Về đến kinh đô, vua Thánh Tông cho dựng cung Ỷ Lan với ý nghĩa là gợi nhớ lại câu chuyện nhà vua đã gặp cô gái đứng tựa cây lan (Ỷ Lan tức là: tựa cây lan), và phong cho cô gái hái dâu làng Thổ Lỗi làm Ỷ Lan Phu Nhân.

Chuyện hậu cung

Ba năm sau khi tiến cung, Ỷ Lan Phu Nhân hạ sinh cho vua Thánh Tông vị hoàng tử đầu tiên, hoàng tử Càn Đức, tức vua Lý Nhân Tông sau này. Nhờ đó, Ỷ Lan Phu Nhân được gia phong Ỷ Lan Thần Phi. Vào năm 1068, Ỷ Lan Thi Thần Phi hạ sinh thêm một hoàng tử nữa, và được phong là Ỷ Lan Nguyên Phi (đứng đầu các phi, chỉ sau Hoàng Hậu Thượng Dương lúc bấy giờ).

Năm 1072, vua Thánh Tông mất, con trai Nguyên Phi Ỷ Lan là Thái tử Càn Đức lên ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông. Tân vương sinh năm 1066, tức lên ngôi chỉ mới 6 tuổi, do đó cần có Thái hậu buông rèm nhiếp chính. Theo điển lệ lúc bấy giờ, bất kể là mẹ ruột của vua hay không, miễn là Hoàng hậu thì sẽ được phong làm Thái hậu và được buông rèm nhiếp chính. Hoàng hậu của vua Thánh Tông là bà Thượng Dương, và thế là Hoàng Hậu Thượng Dương được phong Thái Hậu nhiếp chính, trong khi đó bà Ỷ Lan là mẹ ruột lại chỉ được phong là Thái Phi (đứng sau Thái hậu). Tức vì con mình đẻ ra mà mình lại bị thua kẻ khác, nên Thái Phi Ỷ Lan mới rấp tâm hại Thượng Dương Thái Hậu.

Sự việc xảy ra vào năm 1073, sử cũ chép như sau:

« Linh Nhân (tức bà Ỷ Lan-LP) có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: “Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Thượng Dương Thái Hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông ».

Sau đó, vua Nhân Tông mới phong cho mẹ ruột làm Linh Nhân Thái Hậu nắm quyền buông rèm nhiếp chính. Như thế, cô gái hái dâu làng Thổ Lỗi năm nào, sau 10 năm tiến cung, không chỉ trở thành mẫu nghi thiên hạ cai quản hậu cung, mà còn nắm đại quyền điều hành đất nước.

“Rằng tôi chút phận đàn bà….”

Vụ bức tử Thượng Dương Thái Hậu và hơn 70 cung nữ nói trên là vết mờ trong bức tranh sáng lạng về sự nghiệp của Thái Hậu Ỷ Lan. Sự việc đã bị các sử gia phong kiến chỉ trích. Thế nhưng, ở đây có một điểm đáng chú ý, đó là sự chỉ trích của các sử gia phong kiến vốn nặng tính Nho Giáo đã không quá gay gắt, mà hơn nữa còn tỏ ra thông cảm.

Chẳng hạn như sử gia Nho Giáo Ngô Sĩ Liên phê rằng: “Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại là mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua”.

Một lần phạm tội sử sách đã không quên, nhưng các sử gia lại tỏ ra thông cảm với cái chuyện “Ghen tuông vốn chuyện người ta thường tình” như cụ Nguyễn Du đã nói trong Truyện Kiều. Sự cảm thông này có thể hiểu được, bởi vì đối với đại cục, với dân với nước, Thái Hậu Ỷ Lan đã có những đóng góp vô cùng to lớn.

Hai lần nhiếp chính

Tài làm chính trị của Thái Hậu Ỷ Lan được thể hiện ngay cả khi bà còn là Nguyên Phi. Số là vào năm 1069, vua Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh nước Chiêm ở phía Nam, vua tin tưởng giao quyền nhiếp chính cho Nguyên Phi Ỷ Lan. Sử cũ chép rằng : bà nguyên phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến dân tâm hòa hiệp, cõi nước thanh bình. Dân gian sùng đạo Phật, tôn bà là “Quan Âm”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép một mẫu chuyện mà theo đánh giá của nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần là “Chút sĩ diện đáng yêu của vua Lý Thánh Tông” như sau :

“Trận này, vua đánh Chiêm Thành mãi không được, bèn rút quân về. Đến Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng), vua hỏi thăm nhân dân, thấy nhân dân hết lời ca ngợi tài trị nước của Ỷ Lan, vua mới thở than: “Kẻ kia là đàn bà còn làm được như thế, là nam nhi lại chẳng làm được việc hay sao?”. Nói xong bèn quay lại đánh nữa và thắng được”.

Lần nhiếp chính thứ hai xảy ra sau khi vua Lý Thánh Tông mất vào năm 1072. Như đã nói, Thái Phi Ỷ Lan đã bức hại Thái Hậu Thượng Dương vào năm 1073 và chiếm ngôi Thái Hậu nhiếp chính.

Thế nhưng, vừa nắm được quyền bính, Thái Hậu Ỷ Lan đã phải lèo lái chính quyền nhà Lý cứu nguy cho chủ quyền dân tộc. Số là vào năm 1076, quân Tống xâm lấn nước ta. Trước sức mạnh như vũ bão của giặc, Thái Hậu Ỷ Lan đã biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hiềm khích cá nhân. Chuyện là, trước đây, Lý Đạo Thành về phe Thái Hậu Thượng Dương còn Thái Phi Ỷ Lan thì dựa vào Lý Thường Kiệt. Năm 1073, Thái Hậu Thượng Dương bị bức tử, Lý Đạo Thành bị giáng chức ra tận Nghệ An.

Thế nhưng, để tạo được sức mạnh đoàn kết bên trong mà chống giặc ngoài, Thái Hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ và triệu Lý Đạo Thành về kinh giao cho chức Thái Phó Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự trông lo nội chính, còn Lý Thường Kiệt thì tập trung sức lực dẫn quân chống ngoại xâm. Một cách khái quát, triều đình dưới quyền Ỷ Lan, văn có Lý Đạo Thành còn võ thì có Lý Thường Kiệt.

Và kết quả là cuộc chiến chống quân Tống năm 1076-1077 đã chiến thắng vẻ vang với trận Như Nguyệt đi vào lịch sử. Và với sự bất tử của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, một bài thơ được xem là ‘‘Bản Tuyên ngôn Độc lập’’ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Chưa hết, trước khi đánh quân Tống, Lý Thường Kiệt đã mang quân đánh Chiêm vào năm 1075 và giành được chiến thắng. Nên nhớ rằng, việc “Phá Tống, bình Chiêm” của Lý Thường Kiệt diễn ra thành công khi ấy vua Nhân Tông chỉ là một cậu bé lên mười. Và như thế, việc triều đình tất nhiên do Thái Hậu Ỷ Lan lãnh đạo. Ỷ Lan chỉ là một người đàn bà sống trong cái xã hội do đàn ông thống trị xưa kia, thì quả thật, nếu không có thực tài chính trị để điều hành đất nước, thì bà cũng không dễ gì lãnh đạo nổi hai nhân vật kiệt xuất như Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành.

Đào tạo một minh quân cho đất nước

Thái Hậu Ỷ Lan rất hiểu nỗi đau khổ của nông dân. Khi Lý Thánh Tông mất, con bà lên ngôi, bà đã làm được nhiều việc có ích cho dân. Ở nông thôn bấy giờ có nhiều phụ nữ vì nghèo mà phải bán mình, đem thân thế nợ, không thể lấy chồng được, bà Ỷ Lan đã lấy tiền bạc trong quốc khố chuộc những người ấy và đứng ra dựng vợ gả chồng cho họ.

Thái Hậu Ỷ Lan rất hiểu rằng đối với người nông dân thì “con trâu là đầu cơ nghiệp”, nên đã nhiều lần nhắc nhở vua Nhân Tông phạt nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu. Tháng hai năm Ðinh Dậu (1117), giai đoạn trước khi bà mất, bà còn nhắc nhở vua một lần nữa : “Gần đây, người kinh thành và làng ấp có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”.

Lời khuyên vua trên đây chứng tỏ tuy Thái Hậu Ỷ Lan quan tâm theo dõi và lo lắng đến đời sống nông dân. Không chỉ có thế, kinh tế Đại Việt bấy giờ cái chính vẫn là nông nghiệp, bởi vậy chăm lo cho nông dân cũng chính là chăm lo cho nền kinh tế đất nước. Tuy việc con trâu bề ngoài là chuyện nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa chiến lược rất lớn vậy.

Vâng lời mẹ, vua Lý Nhân Tông hạ lệnh truy bắt và trừng trị những kẻ chuyên nghề ăn trộm trâu. Không những thế việc giết trâu ăn thịt những ngày giỗ đám cũng bị hạn chế. Chính quyền nhà Lý quy định ở Thăng Long cũng như tại các địa phương trong cả nước cứ ba nhà lập một “bảo” kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đới chịu trách nhiệm về tội lạm giết trâu bò.

Ngoài những đóng góp nói trên, Thái Hậu Ỷ Lan còn có một đóng góp vô cùng quan trọng mà không thể nào không nhắc tới, đó là bà đã sinh ra và đào tạo được một minh quân cho đất nước như Lý Nhân Tông.
Các bộ sử đều ghi lại việc đất nước phát triển phồn thịnh về mọi mặt dưới thời Lý Nhân Tông. Đặc biệt về giáo dục, vào năm 1075, triều đình cho mở khoa thi tam trường để lấy người văn học ra làm quan.  Đây là kỳ thi đầu tiên ở nước ta, chọn được hơn 10 người trong đó thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Năm 1076, triều đình lập Quốc Tử Giám, được xem là trường đại học đầu tiên của nước ta. Nền giáo dục Nho Học của nước Việt bắt đầu từ đó.

Ta thấy trong giai đoạn này, vua Nhân Tông chỉ độ 10 tuổi, Lý Đạo Thành lo việc nội chính, Lý Thường Kiệt thì lo đánh giặc ngoại bang, trên thì có Thái Hậu Ỷ Lan lãnh đạo. Sử gia Trần Trọng Kim nhận định về giai đoạn này như sau: “…trong thì sửa sang được chính trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công nghiệp như vậy”. Và lẽ dĩ nhiên, để có được cái “tôi hiền tướng giỏi” đó, thì người lãnh đạo tối cao là Thái Hậu nhiếp chính phải có thực tài lãnh đạo.

Trở lại trường hợp của vua Lý Nhân Tông, khi lớn khôn, ông vẫn theo đường lối mà mẹ ông đã làm khi nhiếp chính để xây dựng một đất nước phồn thịnh. Sử cũ chép rằng, khi Thái Hậu Ỷ Lan mất, vua Nhân Tông đã làm theo đúng di nguyện của bà là hỏa táng theo nghi thức Phật Giáo. Điều đó cho thấy vua có hiếu và kính mẹ như thế nào. Và điều đó càng cho thấy, Thái Hậu Ỷ Lan có uy với triều đình và với nhà vua như thế nào.

Thái Hậu Ỷ Lan mất vào năm 1117, còn vua Nhân Tông mất năm 1127, tức chỉ cách nhau có mười năm. Có thể nói rằng, nhà vua chỉ được hoàn toàn “tự do” khỏi sự ảnh hưởng của mẹ được 10 năm mà thôi. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ca ngợi tài đức của vua Lý Nhân Tông như sau: “…sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, nước được thái bình, là vua giỏi của triều Lý”. Và vua Nhân Tông càng tài giỏi, thì cái công giáo dưỡng của Thái Hậu Ỷ Lan lại càng to lớn.

Học rộng biết nhiều

Phụ nữ ngày xưa chỉ quen việc « khuê môn bất xuất », còn việc học hành ra thi thố với đời là đặc quyền của đấng mày râu. Thái Hậu Ỷ Lan xuất thân chỉ là cô gái hái dâu thì chắc chắn không có điều kiện để học hành nhiều được. Sử cũ không thấy chép là bà Ỷ Lan ăn học tới đâu, nhưng qua những thể hiện cụ thể, ta thấy bà là người học rộng, biết nhiều.

Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau này là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long), để thết đãi các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà có óc phán đoán, đòi hỏi các sư “nói có sách, mách có chứng”. Chính những lời đối đáp giữa bà với các bậc cao tăng đã đặt nền tảng đầu tiên cho việc ra đời của sách Thiền Uyển Tập Anh (nghĩa là Anh Tú Vườn Thiền) rất có giá trị sau này. Xin trích một bài kệ bàn về chuyện sắc không trong tác phẩm này :

Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc? Không? thôi mặc cả,
Mới thấu được chân tông

Chỉ bốn câu thôi cũng đủ thấy trình độ tinh thông Phật Pháp của Thái Hậu Ỷ Lan cao đến dường nào !
Nhiều ngôi chùa tháp có quy mô to lớn bề thế, có trang trí đẹp mắt đã được xây dựng lên trong “thời đại Ỷ Lan” này : chùa Giạm (Quế Võ, Hà Bắc) 1086, chùa Một Mái ở động Hoàng Xá (Quốc Oai, Hà Tây)1099, chùa Phật Tích (Tiên Sơn, Hà Bắc) 1100, chùa Bảo Ân (Ðông Sơn, Thanh Hóa) 1100, tháp Chương Sơn (Ý Yên, Nam Hà) 1108, chùa Bà Tấm hay còn gọi là Linh Nhân Từ Phúc (Gia Lâm, Hà Nội) 1105. Vẫn hay đó căn bản là do công sức và tài khéo của nhân dân, thế nhưng tất cả phải có sự cho phép và hỗ trợ của nhà cầm quyền, mà người nắm quyền tối cao lại là người rất sùng đạo Phật là Thái Hậu Ỷ Lan.

Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu (1117), Thái Hậu Ỷ Lan mất, thọ trên 70 tuổi, được vua Nhân Tông dâng thụy hiệu là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Đền thờ chính của bà hiện ở Gia Lâm, Hà Nội. Ngôi chùa có tên là "Linh Nhân Từ Phúc Tự" (dân gian thường gọi là "chùa Bà Tấm"), được bà cho xây dựng vào năm 1115. Đến khi bà qua đời, ngôi đền thờ bà cũng được xây dựng tại đây. Từ đó đến nay, cụm đền chùa này là nơi thờ Phật, và cũng là nơi tưởng niệm bà.

Đến đây, có thể nói rằng, dù trong sự nghiệp của bà đã có một vết đen và vụ bức tử Thượng Dương và hơn 70 cung nữ, thế nhưng dân gian vẫn xem bà như “Quan Âm tái thế”, hay là “Cô Tấm” trong truyện cổ tích. Huống chi câu chuyện bức tử nói trên chỉ được sử sách chép lại có mấy dòng, hoàn toàn không nói rõ bối cảnh và nguyên nhân sâu xa thật sự của vụ việc. Thái Hậu Ỷ Lan xuất thân chỉ là một thôn nữ nhà nghèo mà lại tự rèn luyện có được một kiến thức hết sức uyên thâm, đó là một tấm gương tự học lớn. Bà không chỉ giỏi việc nước, mà còn đảm việc nhà khi đã đào tạo cho vạn dân một vị minh quân như vua Lý Nhân Tông.

Bài học lớn nhất rút ra từ sự nghiệp chính trị của Thái Hậu Ỷ Lan có lẽ là việc : Vì lợi ích chung, bà đã biết gác lại hiềm khích cá nhân để huy động mọi lực lượng có thể nhằm chống kẻ thù xâm lược. Khi giặc Tống xâm lăng, vua Nhân Tông chỉ mới lên 10 tuổi, Thái Hậu Ỷ Lan phải thay vua lãnh đạo quân dân chiến đấu chống kẻ thù.

Bà đã gác lại tư thù để dùng người có thực tài như Lý Đạo Thành làm Bình Chương Quân Quốc lo chuyện nội chính. Chiến công hiển hách của Lý Thường Kiệt ngoài mặt trận sẽ không thể có được nếu như không có một hậu phương vững chắc và thống nhất, mà cái hậu phương vững chắc và thống nhất đó đã có được nhờ vào tài điều hành của Thái Hậu Ỷ Lan và tài trị nước của ông Lý Đạo Thành.

Ai dám nghĩ một cô gái hái dâu quê mùa mà có được cái tài chính trị đến như vậy? Cái tài chính trị đó có thể tóm lược qua câu trả lời của bà khi được vua Thánh Tông hỏi về việc trị quốc, được sử cũ chép lại như sau: “Muốn nước giàu dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng khó uống nhưng chữa được bệnh”.

Tài năng đó, đức độ đó đã góp phần khẳng định bản lĩnh của phụ nữ Việt nam, đã đưa Thái Hậu Ỷ Lan vào hàng ngũ những nhà lãnh đạo chính trị kiệt xuất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, và đặc biệt là đã để lại cho hậu thế một bài học quý giá về việc biết sử dụng hiền tài, và khi cần thiết thì biết gác lại hiềm khích riêng tư để phục vụ cho lợi ích chung của đất nước.
by Lý Tưởng Người Việt
CÀ MAU (NV) - Một ông trung úy, sếp phó công an thị trấn Thới Bình, tỉnh Cà Mau vừa bị tố “tắm chung với vợ người” trong một ngôi nhà ở cạnh đồn.

Báo Người Lao Ðộng trích dẫn đơn tố cáo của ông Liêu Hôn, 50 tuổi, cư dân thị trấn Thới Bình nói đã bắt được quả tang ông Tô Quốc Việt, phó trưởng đồn công an thị trấn Thới Bình tắm chung với vợ của ông tên Nguyễn Mỹ N., 35 tuổi.



Phó đồn công an bị tố tắm chung với vợ người ở nhà bên cạnh. (Hình: báo Người Lao Ðộng)


Thư tố cáo của ông Liêu Hôn kể chi tiết sự việc, nói rằng khoảng 8 giờ đêm 13 tháng 10, ông từ ngoài đột ngột trở về nhà riêng - nằm cạnh trụ sở công an thị trấn. Thấy cánh cửa nhà chỉ khép hờ, với một đôi dép đàn ông “lạ” nằm đó, ông Liêu Hôn đi thẳng ra nhà sau xem động tĩnh. Nghe tiếng nước xối, ông hình dung vợ nhà đang tắm rửa, kỳ cọ trong buồng.

Tuy nhiên, sau đó ông Liêu Hôn lại nghe nhiều hồi chuông “lạ” đổ vang từ trong nhà tắm. Sinh nghi có người “lạ” trong phòng tắm nhà mình, ông Liêu Hôn quyết định ngồi... rình.

Ông này còn kể rằng, vừa thấy vợ ông từ nhà tắm bước ra, thì lật đật bước vào và bắt được quả tang ông phó đồn công an cũng đang... tắm. Bà Nguyễn Mỹ N. xuống nước năn nỉ còn ông Việt quả quyết rằng ông Hôn hiểu lầm và không nắm được bằng chứng cho thấy “hai người đang tắm chung.” Vì lẽ này, ông Hôn quyết định “tạm thời bỏ qua.”

Tuy nhiên, cho đến ngày 1 tháng 11, ông Hôn đâm đơn tố cáo sự việc, cho rằng vụ “đi đêm” của ông sếp phó đồn công an ở cạnh nhà và cô vợ trẻ của ông quá lộ liễu, đến nỗi hàng xóm đều biết.

Ông Hôn còn thú nhận rằng, ông thường xuyên vắng nhà vào ban đêm vì bận coi sóc vuông tôm xa nhà, thường mất khoảng nửa tiếng đồng hồ lái xe. Ông Hôn nhìn nhận rằng, không hề hay biết chuyện tằng tịu của vợ với ông sếp phó đồn công an đóng đồn sát bên nhà.

Cũng theo báo Người Lao Ðộng, sáng ngày 1 tháng 11, người đứng đầu công an thị trấn Thới Bình cho hay, đã yêu cầu ông Tô Quốc Việt giải trình sự việc. (PL)
by Lý Tưởng Người Việt
VIỆT NAM (NV) - Trong vòng vài năm trở lại đây, một số người Việt coi đất nước Angola xa xôi ở bờ Tây Châu Phi là vùng đất hứa.

Theo phúc trình của Cục Quản Lý Lao Ðộng Ngoài Nước thuộc Bộ Lao Ðộng-Xã Hội Việt Nam, hiện có xấp xỉ 50,000 người Việt Nam hiện diện tại nhiều vùng khác nhau ở Angola.



Ông Vũ Minh Ðức tại công trường xây dựng ở tỉnh Huambo, Angola. (Hình: báo Tiền Phong)


Trong số này, có chừng 40 người trở thành triệu phú chỉ sau một thời gian ngắn.

Theo báo Tiền Phong, một số triệu phú người Việt ở Angola được gọi là “trùm,” đứng đầu các ngành sản xuất-kinh doanh, nhiều nhất là ngành xây dựng, buôn bán. Nhiều khuôn mặt nổi bật được nhiều người biết như Cường Viana, Phụng Avima, Ðức Huambo, Thi Benguela, Thành Lubango...

Cũng theo báo Tiền Phong, sự hiện diện của 5 vạn người Việt Nam đã góp phần tạo lập vùng đất được coi là “thủ phủ” nhộn nhịp của người Việt Nam, tỉnh Huambo, chỉ thua thủ đô Luanda.

Tại đây, nhiều người biết đến tiếng tăm của ông Vũ Minh Ðức, 44 tuổi, quê Hà Nội, đứng đầu một công ty xây dựng. Ông này kể cho biết, ông xuất thân từ một người bán hàng ở một ngôi chợ tọa lạc tại thủ đô Luanda. Về sau, ông thành lập công ty xây dựng ở Huambo, và phất lên nhờ trúng thầu dự án xây làng Olympic và khu nhà ở của quân đội thuộc Bộ Quốc Phòng Angola.

Công ty của ông này hiện thu nạp tới 200 thợ Việt Nam và 500 thợ Angola. Lương tháng của mỗi công nhân xây dựng tại đây khoảng 800 đôla, còn lương của công nhân phụ hồ người bản xứ chừng 100-250 đôla.

Hiện nay, coi Angola là vùng đất “nhiều triển vọng làm giàu,” không ít người Việt Nam tìm đường sang làm việc. Mới đây, một công ty xây dựng bị phạt 12 triệu đồng, tương đương 600 đôla vì đưa hàng chục người sang Angola lao động trái phép.

Ngày 31 tháng 10 vừa qua, nhà cầm quyền Việt Nam đã thương lượng với chính phủ Angola, tìm đường cho người Việt Nam sang nước này làm việc. (PL)
by Lý Tưởng Người Việt
HÀ NỘI (NV) - Sơ suất gây “tai biến sản khoa” suýt làm chết một sản phụ tại bệnh viện Sơn Tây, Hà Nội đang gây xôn xao dư luận. Sự việc xảy ra cách nay khoảng 10 ngày, nhưng đến ngày 1 tháng 11, 2013, mới được công bố bằng một chỉ thị khẩn của Bộ Y Tế Cộng sản Việt Nam yêu cầu thuộc cấp phải làm sáng tỏ nội vụ.

Báo Thanh Niên cho biết, Bộ Y Tế chỉ thị Sở Y Tế Hà Nội làm sáng tỏ vụ một sản phụ tên Nguyễn Thị Loan, cư dân Sơn Tây, Hà Nội bị truyền máu không đúng nhóm máu của mình, suýt làm bà mạng vong.



Bệnh viện Sơn Tây sơ suất suýt làm chết sản phụ. (Hình: VNExpress)


Chi tiết nội vụ được công khai hóa sau đó nói rằng, bà Nguyễn Thị Loan được đưa vào bệnh viện đêm 22 tháng 10 chuẩn bị sinh con. Bệnh nhân bị xuất huyết ồ ạt khi đang được phẫu thuật để lấy thai. Các y bác sĩ bệnh viện Sơn Tây đã truyền cho bà này tổng cộng 17 bịch máu, gồm 7 bịch của thân nhân và 10 bịch còn lại từ các bệnh viện bạn.

Bất ngờ, sau nhiều đợt truyền máu, bà Nguyễn Thị Loan rơi vào tình trạng nguy kịch. Bà Loan được chuyển đến bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, rồi sau đó là bệnh viện Bạch Mai để cấp cứu. Các bác sĩ nơi đây khám phá ra rằng, bệnh nhân đã được truyền nhóm máu không đúng, dẫn đến “rối loạn đông máu.”

Chiều ngày 1 tháng 11, bà Loan may mắn thoát khỏi tay tử thần, không còn phải thở máy. Các bác sĩ bệnh viện Bạch Mai cho biết sản phụ đã qua giai đoạn nguy kịch. Các kết quả xét nghiệm cho thấy, bà Loan có nhóm máu AB nhưng đã được truyền máu nhóm B.

Theo kết luận của bác sĩ bệnh viện Phụ Sản Hà Nội ghi trong hồ sơ chuyển đến bệnh viện Bạch Mai, thì bệnh nhân có thể “bị truyền nhầm nhóm máu.”

Theo công văn khẩn cấp của Bộ Y Tế đề ngày 1 tháng 11, Sở Y Tế Hà Nội phải làm sáng tỏ nội vụ và trả lời bằng văn bản về sự việc gây chấn động này trong vòng bốn ngày. (PL)
by Lý Tưởng Người Việt
ÐÀ NẴNG (NV) - Dân chúng thành phố Ðà Nẵng đang chấn động vì tin xuất hiện một loạt đường nứt dọc ngang, chi chít ở mố và dầm cầu Rồng. Ðây là chiếc cầu bắc qua sông Hàn, được coi là “biểu tượng” của thành phố Ðà Nẵng, được khánh thành hồi năm rồi.

Cầu Rồng được khánh thành hồi tháng 3, 2012, tổng số tiền đầu tư xây dựng chiếc cầu này lên tới 1,700 tỉ đồng, tương đương 85 triệu đôla.



Chiếc cầu “Ðiểm nhấn du lịch của thành phố Ðà Nẵng” sau ngày khánh thành. (Hình: VNExpress)

Cầu Rồng còn được tặng biệt danh là “Ðiểm nhấn du lịch của thành phố Ðà Nẵng.” Sau ngày khánh thành, nhà cầm quyền Ðà Nẵng đã cho đầu rồng phun lửa suốt ba đêm liên tiếp để người dân chiêm ngưỡng chiếc cầu đang ghi danh kỷ lục Guinness là “Con rồng thép dài nhất thế giới.”

Theo thông báo của đơn vị xây dựng cầu và đại diện chính quyền thành phố Ðà Nẵng, tuổi thọ của cầu Rồng được xác định là “vĩnh cửu.”

Theo báo mạng VNExpress, trong những ngày gần đây, người dân qua lại phát giác hàng trăm đường nứt lớn, nhỏ xuất hiện dầy đặc trên bề mặt mố cầu nằm về phía Ðông, đường Trần Hưng Ðạo, quận Sơn Trà. Một số nhân chứng nói rằng, có đường nứt dài đến hai mét, bị thấm nước chảy dài trên mặt... Nhiều đường nứt còn được đánh dấu để chờ sửa chữa.

Sáng ngày 30 tháng 10, người dân qua lại cầu trông thấy hai công nhân dùng xi măng trát lại các đường nứt ở mố cầu.



Những đường nứt chi chít dọc ngang ở cầu Rồng (Hình: VNExpress)


Báo mạng VNExpress dẫn lời ông Nguyễn Hà Nam, phó giám đốc Ban Quản Lý Dự Án cầu Rồng thuộc Sở Giao Thông-Vận Tải Ðà Nẵng xác nhận, những đường nứt nói trên đã sớm xuất hiện chỉ một tháng sau ngày cầu được đưa vào hoạt động.

Ông này cho rằng đó là những đường nứt “cấu tạo vì nhiệt độ, chứ không phải vì kết cấu.” Ông Nam còn viện dẫn rằng, đa số các công trình xây dựng cầu đều không thể không bị nứt, nhất là vì cầu Rồng có nhiều nhịp liên hợp, có khối bê tông và chiều dài lớn nên “khó tránh khỏi bị nứt.”

Ông Nam cam kết rằng đơn vị bảo hành sẽ trát xi măng, không để nước mưa xâm nhập, ăn mòn khối sắt thép ở mố dầu. Dư luận tỏ ra lo ngại khi nghe ông này nói rằng “không thể kết luận khi nào cầu Rồng sẽ không còn nứt.”

Cũng theo VNExpress, cầu Rồng được khởi công xây dựng từ tháng 7, năm 2009, dài 666m, rộng 37.5m. Cầu gồm hai chiều qua lại, mỗi chiều có ba làm xe. Báo này cũng cho rằng, chiếc cầu có hình dáng mô phỏng một con rồng thời Lý bay ra biển Ðông. Vòm thép cầu dài 568m, nặng gần 9,000 tấn, do một tổ hợp Hoa Kỳ thiết kế. (PL)
by Lý Tưởng Người Việt


Nỗi đau Quốc-nhục còn chi phối

Hai chữ ''Tri-ân'' luống ngậm ngùi.

Khủng bố vây quanh nơi cố quận

Nghĩa-trang: Quân đội chẳng yên  nơi?



Cộng-đồng  Tỵ-nạn chung danh phận

Thế giới nơi nào có Việt Nam.

Lên tiếng không nhường khi bạo lực:
Ra tay cày phá mộ: Trung-thần (*).



Ba miền Đất Nước chung bi cảnh,

Không thể nương tay để chúng đào...

Phải quyết một lòng dương khí thế!

Đứng lên giữ lấy: Mộ Anh-hào.



Không ai quên được bầy nô lệ?

Cúi mặt làm theo đền nổi hèn...
Bọn chúng đã từng nghe mệnh-lệnh:

Tháng Hai Bảy Chín (*): Cấm TRI ÂN?



 Từ sau Quốc Nạn: Làm dân Việt,

Quyết chống bạo quyền chẳng nới tay!

Thế giới lặng nhìn trong ngưỡng mộ

Màu cờ Nhân-bản vẫn tung bay!

Vĩnh Nhất Tâm 15.04.2013


(*) Trung thần:  Ý tác giả trong hai chữ: "Trung-Thần",  không phải dựa theo nghĩa thời phong kiến dùng để chỉ bề tôi trung đối với vua (vua là vua một một nước chứ không phải là vua một dòng họ)! Mà đây là ý nghĩa  của chữ  ''Trung Thần'' được kết tinh  từ  ý nghĩa  rất đổi thiêng liêng : "VỊ QUỐC VONG THÂN''  từ các chiến sĩ đến cấp chỉ huy và  lãnh  đạo trong  nền Quốc Đạo, được gói ghém với bòn chữ:  ''Trung-liệt, Trung-nghĩa'';  trọn tấm lòng hy sinh vì giống nòi và xã tắc khi đất nước lâm nguy. Tuyệt đối không phải chết cho một âm mưu đen tối được sự sắp đặt để thực thi ý đồ của thế lực ngoại nhân như đảng cộng sản dưới sự lãnh đạo  của HCM và đồng bọn được trực tiếp chỉ huy của đảng CSQT (Nga Tàu) để xâm lăng phần đất Tự Do. Điều này, đã được xác định trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa:  - Từ ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mau là lãnh thổ của một Quốc-gia;  có nghĩa là sẽ quyết tâm giải phóng Miền Bắc  để giành lại nền độc lập của một quốc gia, đã được đảng cộng sản Tàu và Nga dựng nên.  Thừa cơ hội, bọn chúng  cướp chính quyền  vào 02.09.1945; lập tức  hợp thức hóa bằng văn bản của HĐ  Genève vào ngày Quốc Hận 20.07.1954.

 (*) Sự hèn nhát đã rõ ràng  chứng tỏ vào ngày 17 thang 02 năm 2013, tức là sau 34 năm, ngày Tưởng niệm những chiến sĩ Quốc gia Việt Nam hy sinh trước họng súng xâm lăng của Hán cộng trên  khắp 6 tinh dọc biên giới Bắc Việt Việt Nam, bị ngụy quyền đảng cộng sản cấm hoàn toàn. Đó là một câu trả lời hết sức chính xác: Ngụy quyền  đã đầu hàng Tàu cộng  sau Hội nghị lén, mà Giang Trạch Dân đã xác định cho  bọn tay sai Nguyên Văn Linh, Đổ Mười,.. còn yên tâm để có thể che đậy được ngày nào hay ngày ấy. Đó là ngón đòn tâm lý vững chãi dành cho bọn hèn nhát là:  ''bí mật'', trước cái gọi là ''Hội nghị Thánh-đô'' tại tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu, vào ngày 3 và ngày 4 tháng 9 năm 1990, và ''Hiến-pháp''  ngụy quyền ra đời 1992.
by Lý Tưởng Người Việt

Trên con đường từ Hà Nội đi Phả Lại, thân xe vặn vẹo nhiều hay ít, âm thanh cút kít
phát ra lớn hay nhỏ là do diện tích và chiều sâu của từng ổ gà và chiều dài của từng
đoạn đường đang được sửa chữa. Để sửa chữa, mấy bác phu làm đường gánh từng
gánh đá hoặc đất rải lên mặt đường và một toán phu khác dùng xẻng và cào để cào đá
và đất cho bằng phẳng. Lúc xe qua những đoạn đường như vậy bụi đỏ phủ trùm cả
chiếc xe. Có đoạn hành khách phải xuống xe đi bộ để xe có thể vượt qua những khúc
đường quá tệ.
Chính nơi những đoạn đường quá tệ đó, Bảo Trân thấy nhiều cái bếp dã chiến, do ba
viên đá lớn được kê theo hình tam giác, bên dưới lửa cháy phừng phừng, bên trên là
một thùng phuy đựng dầu hắc. Mùi khói từ bếp lửa hoà với mùi hắc ín đang sôi trong
thùng phuy tạo thành mùi hăng hắc, ngột ngạt khó thở. Một toán phu làm đường dùng
một cái gáo nhỏ bằng kim loại, cán bằng gỗ, thật dài, múc hắc ín đổ lên mặt đường mà
đá và đất đã được rải sẵn. Nhìn quanh không thấy chiếc hủ-lô nào cả, Bảo Trân tự hỏi
không hiểu mấy bác phu làm đường áp dụng phương pháp nào để nện hắc ín xuống
mặt đường?
Xe đến bến phà Phả Lại. Trong khi tài xế đậu xe, chờ đến phiên mua vé qua phà, mọi
người phải xuống xe đi bộ lên phà. Hai dãy lều tranh dọc hai bên bến phà cũng bán
những thứ vặt vãnh như các bến phà thuộc miền Tây Nam Việt, chỉ khác một điều, trái
cây miền Nam lớn gấp mấy lần trái cây ở đây.
Phà từ từ rời bến. Nhìn ruộng vườn cằn cỗi hai bên bờ sông, Bảo Trân thở dài. Tiếng
thở dài này so ra cũng chẳng khác chi tiếng thở ra não nuột của nàng khi nàng xuôi
dòng sông Rein bên Âu Châu vào một sáng mùa Hạ. Lúc ấy, nhìn những toà lâu đài cổ
chễm chệ trên đỉnh núi cao, thấy những vườn nho xanh rì chập chùng, chập chùng tiếp
nối nhau trên mấy triền đồi thấp và những cánh đồng phẳng phiu vàng rực hoa hướng
dương cùng những giỏ hoa đủ màu treo lủng lẳng trước mỗi ngôi nhà xinh xinh, Bảo-
Trân chợt so sánh phận người nơi đây và phận người nơi nàng đã phải lìa xa gần một
phần tư thế kỷ. Tiếng harmonica rộn rã trên chiếc phà đầy đủ tiện nghi bên trời Âu chỉ
có thể tạm thời xóa bớt niềm ưu tư trong lòng Bảo Trân chứ không thể nào khiến Bảo
Trân phải bận tâm như người đàn ông trọng tuổi trên chiếc phà cũ kỹ tại bến sông Phả
Lại này.
Người đàn ông đội nón cối, mặc bộ bà ba đầy cáu bẩn và mang đôi dép làm bằng vỏ
bánh xe hơi. Ông đứng lẻ loi nơi góc phà, hai tay vịn ghi-đông xe đạp, mắt ông trông
hoang vắng lạ thường. Thỉnh thoảng ông quay nhìn ra sau rồi đưa tay vuốt nhè nhẹ lên
một cái rương rất nhỏ bằng gỗ, được chạm trổ, sơn màu rêu và được buộc chặt nơi yên
sau. Từ ánh mắt, gương mặt, cử chỉ của người đàn ông cũng như hình thể cái rương
nhỏ thoát ra sự kỳ bí lạ lùng, kích thích sự tò mò của Bảo-Trân. Nhìn cái rương một lúc,
Bảo-Trân nhớ ra là nàng đã thấy vài cửa hàng ở Hà-Nội bán loại rương này. Bảo-Trân
dự tính sẽ tìm dịp thuận tiện để hỏi thăm người đàn ông xem loại rương này được dùng
để làm gì.
Chiếc phà chỉ vượt qua đoạn sông nhỏ, nước đục phù sa. Quang cảnh trên bến phà,
cũng như trên phà, không xô bồ, tấp nập như ở Bắc Mỹ-Thuận hoặc Bắc Vàm-Cống.
Nhìn dòng sông, Bảo-Trân chợt nhớ những lần vào vùng đóng quân thăm Hoan, chồng
nàng. Bảo-Trân thở dài, tự hỏi tại sao, dường như hầu hết những lần thăm Hoan, kể
từ khi Hoan còn là một sĩ quan cấp úy, đến cấp tá, rồi vào tù và mãn hạn tù, Bảo-Trân
đều phải vượt qua thật nhiều chướng ngại? Lần này, tuy cũng phải vượt qua nhiều khó
khăn, nhưng bù lại, Bảo-Trân được dịp ngắm nhìn một phần đất nước mà từ nhỏ nàng
cứ nghĩ rằng sẽ không bao giờ nàng được đặt chân tới!
Phà cập bến. Bảo-Trân bước nhanh về hướng người đàn ông dắt xe đạp, có chở cái
rương nhỏ phía sau. Hai người im lặng đi bên nhau giữa những người vội vã xuống và
lên phà. Người đàn ông thường nhìn xuống, vành nón cối che bớt một phần khuôn mặt
khắc khổ và đôi mắt đăm chiêu. Theo cách người đàn ông dắt chiếc xe đạp, Bảo-Trân
nghĩ có lẽ trọng lượng cái rương không đáng kể. Vậy mà chốc chốc người đàn ông
lại sờ sợi đay chằn phía sau xem tình trạng cái rương. Hai người lên đến con dốc nhão
nhoẹt bùn. Ngại sẽ không còn dịp thỏa mãn tính tò mò, Bảo-Trân chờ đến lúc người đàn
ông vừa đưa tay sờ cái rương, vội đánh bạo hỏi:
- Thưa ông, cái rương đó đựng cái chi mà từ hồi trên phà cháu đã thấy ông nâng niu,
quyến luyến một cách hết sức đặc biệt vậy?
Người đàn ông thoáng giật mình, không ngờ ông bị để ý kỹ như vậy. Nhưng qua giây
phút bất ngờ đó, nét mặt người đàn ông trở lại u buồn. Ông chậm rãi nhìn Bảo-Trân.
Nghe giọng nói và nhìn nhân dáng, ông biết Bảo-Trân là du khách nước ngoài. Ông
phân vân, không biết có nên nói ra nỗi lòng thầm kín của ông cho một người lạ biết hay
không. Ông nhìn Bảo-Trân một lần nữa và nhận ra khuôn mặt phúc hậu, ánh mắt thật
thà của nàng nên ông thở ra, khẽ đáp:
- Hài cốt của thằng con tôi!
Bão-Trân giật mình, lính quýnh:
- Ô, cháu xin lỗi. Cháu thành thật xin lỗi ông.
- Có gì đâu mà lỗi với phải, cô. Vì cô là người miền Nam và lại từ nước ngoài về nên
cô không biết chứ ở đây họ thấy cái này - người đàn ông hơi xoay mặt ra sau, xoa nhẹ
cái rương - là họ biết liền.
Thấy ông cụ đã không phiền mà còn tỏ ra cởi mở, Bảo-Trân lại hỏi:
- Chắc con ông mất trong thời chiến tranh, bây giờ ông cải táng, phải không, thưa ông?
- Không. Cháu nó mất sau khi nước nhà thống nhất mới khổ chứ, cô!
- Sao mà tội quá vậy!
Từ ngày được tin con ông mất cho đến nay chưa bao giờ ông dám để lộ sự bất mãn với
bất cứ ai; vì ông ngại đến tai chính quyền thì phiền. Nhưng bây giờ nghe Bảo-Trân hỏi,
ông nghĩ Bảo-Trân không biết ông là ai và rồi Bảo-Trân cũng sẽ chẳng ở lại đây để nói
lại với ai cả nên ông bùi ngùi thố lộ nỗi niềm:
- Vợ chồng tôi nghèo, lại hiếm muộn, chỉ sinh được mỗi mụn con. Nó vừa nhớn nhớn
một tý là vợ chồng tôi gửi nó ra Hải-Phòng để bác nó nuôi, cho ăn đi học. Năm năm tư,
gia đình bác nó di cư vào Nam, đem nó theo. Mấy mươi năm bặt tin, đến khi nước nhà
thống nhất, tôi tìm ra được ông anh thì mới biết thằng con của tôi đang cải tạo ở Lạng-
Sơn. Vợ chồng tôi đợi đến mùa bắp mới mong có tiền đi Lạng-Sơn thăm con. Nhưng,
cô ơi! Bắp chưa kịp trổ hoa thì thằng con của tôi đã chết trong tù!
Bảo-Trân lộ vẻ bối rối, không ngờ nàng vô tình khơi động nỗi đau trong lòng người đàn
ông khốn khổ này. Sau một thoáng im lặng để nén xúc động, Bảo-Trân thở dài:
- Tội nghiệp quá! Chiến tranh chấm dứt lâu rồi nhưng di hại của nó chưa biết đến bao
giờ mới vơi, phải không, thưa ông?
- Ngày còn chiến tranh thì khổ vì bom đạn, nghèo đói và chia lìa, nhưng còn hy vọng là
sẽ được gặp lại con. Bây giờ hòa bình hai mươi năm rồi mà đói thì vẫn hoàn đói, nghèo
thì cứ tự do nghèo, còn con thì chẳng còn!
Trong khi Bảo-Trân tìm chưa ra lời để xoa dịu nỗi đắng cay trong lòng người đàn ông
thì Ninh, hướng dẫn viên du lịch cho nhóm cùng đi với Bảo-Trân, trờ tới, giọng hấp tấp:
- Cô! Cô đi nhanh lên. Cháu tìm cô từ nãy giờ. Mọi người lên xe cả rồi.
Ngồi trên xe, nhìn lại bến phà Phả-Lại, Bảo-Trân thấy người đàn ông lúc nãy đang
còng lưng trên chiếc xe đạp. Sau lưng đeo nặng dĩ vãng đau buồn, trong lòng ôm kín
niềm mất mát lớn lao trong đời và trước mặt là chuỗi ngày cô quạnh sắp đến của tuổi
già, Bảo-Trân không hiểu cuộc đời của những người như người đàn ông này, thuộc cả
hai miền Nam-Bắc, rồi sẽ ra sao!
Chiếc xe vẫn lắc mạnh như con tàu đang vặn mình theo từng con sóng dữ, nhưng hồn
Bảo-Trân lại êm ả nhờ những ruộng bắp xanh rì và những luống bắp cải thẳng tắp,
màu xam xám, dọc hai bên đường. Thấy nhiều người đàn bà tát nước bằng cái gàu cột
vào ba thanh tre, Bảo-Trân nghĩ ngay đến những người đàn bà lam lũ ở làng Sơn-Tịnh
thuở xưa. Và từ hình ảnh đó cùng câu chuyện thương tâm của người đàn ông gặp ở bến
phà, Bảo-Trân thương mến ngay vùng đất lạ.
Song song với đường xe lửa, chiếc xe vẫn “bò” chầm chậm và lắc liên hồi trên tỉnh
lộ lở lói. Đến một đoạn đường, gần thị xã Uông-Bí, du khách lại phải xuống xe đi bộ.
Trong khi du khách ngoại quốc vừa đi vừa trầm trồ, chỉ chỏ cảnh vật chung quanh thì
Bảo-Trân chậm bước, nhìn nhóm phu làm đường đang hì hục bên mấy đống đá. Hầu
như người phu nào, cả nam lẫn nữ, cũng đều đội nón lá và dùng khăn trùm kín mặt,
chỉ chừa hai mắt. Thấy người nào vóc dáng thấp, nhỏ nhắn và những sợi tóc dài bay
lất phất trên phiến lưng gầy, Bảo-Trân nghĩ ngay đó là phu phái nữ. Nhìn kỹ, Bảo-
Trân thấy nhóm phu chia làm hai, mặt đối mặt, đàn bà một bên, đàn ông một bên và
ở giữa là đống đá lớn với mấy cái xẻng. Một đầu của đoạn giây thừng hoặc giây ny-
lông được cột vào nơi giao tiếp của lưỡi và cán xẻng. Mỗi người đàn ông cầm đầu giây
còn lại. Người đàn bà lum khum cầm cán xẻng, xắn mạnh xuống đống đá, liền khi đó,
người đàn ông giật sợi giây về phía ông ta, thế là mớ đá bị kéo về phía ông ấy. Những
động tác này rất đều đặn và liên tục. Trên những tấm thân gầy guộc của nhóm phu làm
đường, mồ hôi kết thành dòng, thấm qua làn vải, thoát ra mùi nồng nồng, mằn mặn.
Bảo-Trân biết chắc chắn rằng những vết hoen ố trên những bộ quần áo bà ba nhạt
thếch hoặc đùng đục màu cháo lòng của mấy bác phu làm đường là do mồ hôi quyện
với bụi đất, đọng lại!
Xe chạy song song với đường xe lửa, giữa những ruộng bắp xanh rì. Bảo-Trân thích
thú khi thấy xa xa một khối xi-măng nhỏ, chung quanh bị sứt mẻ nhiều, màu sơn nhòe
nhoẹt, loang lỗ, đứng xiêu vẹo bên đường. Khối xi-măng này, ngày xưa, lúc theo gia
đình tản cư, Bảo-Trân thường thấy dựng bên lề đường để đánh dấu cây số (ki-lô-mét)
và địa danh từng vùng. Từ ngày lớn lên ở miền Nam, Bảo-Trân không hề thấy nữa.
Xe chạy ngang trụ cây số, Bảo-Trân thấy ghi thị-xã Uông-Bí. Không hiểu thị-xã Uông-
bí trù phú và đông đúc như thế nào, nhưng dọc hai bên tỉnh lộ, Bảo-Trân thấy nhà gạch
san sát và rất nhiều nhà lầu mới xây, tạo nên hai dãy phố vui. Bất ngờ Bảo-Trân thấy
vài nhóm người mặc quần áo rất hợp thời trang Âu-Mỹ, khoác tay nhau đi rểu rểu trước
những đôi mắt thèm thuồng của nhiều người. Bảo-Trân quay sang hỏi Ninh:
- Ninh ơi! Mấy người đi rảo rảo đó có phải là du khách không, Ninh?
- Dạ, có người là Việt-Kiều thứ thật, có người vượt biên, ở lại Hồng-Kông hoặc đảo
nào đó một thời gian rồi bị trả về.
Bảo-Trân tính hỏi về tình trạng những người Việt bị cưỡng bách hồi hương, nhưng
ngại nên thôi. Một lúc sau Bảo-Trân lại tính hỏi tại sao ngay giữa Hà-Nội mà hai ngày
qua, bất cứ người nào nàng tiếp chuyện cũng đều nói chữ “L” thành ta chữ “N”, nhưng
nghĩ lại, Bảo-Trân sợ va chạm, đành chuyển đề tài:
- Ninh đã vào Nam lần nào chưa?
Ninh cười, lắc đầu. Chú tài xế chen vào:
- Cháu vào rồi. Cháu vào rồi. Úi giời! Không ngờ được! Không ngờ được!
Bảo-Trân tò mò:
- Anh vào hồi nào, lâu chưa?
Chú tài xế hơi quay về phía Bảo-Trân, vỗ vỗ mấy đầu ngón tay của bàn tay mặt lên
ngực, đáp:
- Cháu vào tiếp thu năm bẩy nhăm chứ hồi nào.
Bảo-Trân sa sầm nét mặt, cảm thấy tê tái trong hồn. Vì bận nhìn phía trước để lái xe,
chú tài xế không nhận biết được sự xúc động của Bảo-Trân nên tiếp:
- Đáng nhẽ, theo kế hoặch, chúng cháu vào tiếp thu Saigon sớm hơn nữa kia. Nhưng tại
Xuân-Lộc, gặp cánh quân của tướng… tướng gì nhẩy?
Nghe chú tài xế gọi Saigon chứ không gọi là thành phố Hồ-Chí-Minh, Bảo-Trân thấy
vui vui, tính nhắc chú tài tên vị tướng miền Nam chỉ huy trận Xuân-Lộc là Tướng Lê-
Minh-Đảo. Nhưng chợt nhớ ra chú tài xế là ai, Bảo-Trân sợ, im luôn. Chú tài xế tiếp:
- Lâu quá cháu chả nhớ. Nhưng cánh quân ấy đánh rát lắm cô ạ.
Giọng của chú tài xế đượm nhiều vui thích như đang kể một đoạn phim xi-nê chiến
tranh khiến Bảo-Trân quay mặt đi để khỏi bật khóc. Một lúc sau, sự xúc động lắng
xuống, Bảo-Trân hỏi:
- Khi vào đến Saigon, cảm giác đầu tiên của anh thế nào?
- Cần gì phải vào đến Saigon, cô! Mới đến Hàng-Xanh là chúng cháu đã sửng sốt, ngỡ
ngàng dzồi!
- Tại sao? Cái gì làm cho anh sửng sốt, ngỡ ngàng?
- Hiện đại. Hiện đại vô cùng! Cái gì cũng tối tân, hiện đại.
Bất ngờ chú tài xế hơi quay mặt nhìn Bảo-Trân, tiếp:
- Thế năm bẩy nhăm “đồng chí”… ơ… ơ… quên, cô, cô ở đâu?
Bảo-Trân thoáng giật mình khi nghe chú tài gọi nàng là “đồng chí”. Sau khi nghe chú tài
đính chính, Bảo-Trân cười. Vì không dám để lộ tông tích, nàng ngập ngừng nói dối:
- Dạ, dạ… ở… Huế.
- Thảo nào cháu nghe có vài chữ cô phát âm lơ lớ.
- Dạ, tại vì tôi chỉ Huế có… một nửa thôi.
- Thế à! Thế chuyến này về cô ghé Huế chưa?
- Dạ chưa.
Giọng chú tài trở nên nghiêm trọng:
- Cô phải ghé Huế thì mới hiểu rõ được lịch sử.
- Dạ lịch sử chi? Anh muốn đề cập đến những thảm cảnh chiến tranh ở miền Trung
như đại lộ kinh hoàng hoặc Mỹ-Lai, phải không?
Chú tài quay sang Bảo-Trân, ném ánh mắt ngạc nhiên rồi nhìn thẳng phía trước:
- Đại lộ kinh hoàng là đại lộ nào, cô?
- Dạ, là quốc lộ I, đoạn từ Quảng-Trị vào Huế, khai sinh vào năm 1972.
- Ô, thế thì cháu biết rồi. Nhưng trận 72 và vụ Mỹ-Lai so với trận Mậu-Thân thì chả
thấm thía gì đâu.
Bảo-Trân chưa biết chú tài xế muốn đề cập đến cái gì! Lẽ nào chú tài xế lại đem
chuyện “phe của chú” thảm sát đồng bào vô tội ở Huế vào năm Mậu-Thân kể cho nàng
nghe? Trong khi Bảo-Trân còn hoang mang, chú tài tiếp:
- Bọn Mỹ dã man thật! Trận Mậu-Thân chúng giết chết cả mấy nghìn người, bộ đội và
nhân dân ta chôn không kịp, đành phải đào hố thật lớn, chôn tập thể đấy.
Bảo-Trân trợn mắt:
- Ai nói với anh là năm Mậu-Thân Mỹ giết mấy ngàn người ở Huế?
- Ai mà chả biết chuyện ấy, cô. Có thể năm Mậu-Thân cô còn bé hoặc kỳ này về cô
chưa ghé Huế nên cô không biết; chứ nếu cô ghé Huế, đi tours, thì thế nào hướng dẫn
viên du lịch cũng giải thích và chỉ những ngôi mộ tập thể ấy cho cô xem.
- Anh nói sao? Hướng dẫn viên du lịch giải thích cho du khách Việt-Nam và cả du
khách ngoại quốc như vậy à?
- Vâng. Đó là sự thật của lịch sử thì mình cũng nên phổ biến cho cả thế giới biết chứ,
phải không, cô?
Bảo-Trân nghẹn! Cả thế giới đều biết và phim ảnh cũng như sử sách đã ghi lại cuộc
tổng công kích năm Mậu-Thân do Bắc quân chủ xướng; vậy mà họ bưng bít tài tình cho
đến nỗi thuộc cấp của họ, những người không trực tiếp tham chiến trận Mậu-Thân,
cũng không hay!
Trong khi Bảo-Trân cảm thấy không vui thì chú tài xế tiếp:
- Để chiều về cháu chạy ngang phố Khâm-Thiên cho cô xem vết tích của thời B-52 rải
thảm.
Bảo-Trân lại ngạc nhiên:
- Ủa, tôi tưởng Mỹ chỉ thả bom những khu vực quân sự thôi chứ.
Chú tài cười thành tiếng:
- Thời chiến ở đâu không là căn cứ quân sự, cô. Cứ mỗi nhà là một căn cứ quân sự; vì
nhà nào cũng có con em đi bộ đội cả.
Bảo-Trân lặng im, tựa lưng vào ghế thầm nghĩ đến câu nói của ông Dư, thân phụ của
Bảo-Trân, ngày ông Dư mới sang Mỹ theo diện H.O: “… Sau khi từ trại Đồng-Găng
bị chuyển ra A-30, mỗi chiều, sau giờ lao động, Ba dạy nhạc cho mấy chú vệ binh. Nhờ
thường xuyên trực tiếp chuyện trò với họ Ba mới nhận ra rằng họ cũng đáng thương như
những người tù miền Nam. Điểm khác nhau giữa họ và tù miền Nam là họ có khí giới và
tù miền Nam có văn hóa. Vì thiếu văn hoá cho nên họ dễ bị tuyên truyền, dễ bị đầu độc
và dễ bị bưng bít. Do đó họ thường có những suy xét và nhận định sai lầm. Ba nghĩ họ
cũng chỉ là nạn nhân của một cơn lốc tàn khốc nhất trong lịch sử Việt-Nam cận đại mà
thôi.”
*****
Từ Bãi-Cháy, sau khi nhận đủ số khách cho một chuyến hải trình riêng biệt, đoàn ghe
sơn phết lòe loẹt bắt đầu rời bến. Hầu hết du khách đều lên tầng trên để vừa sưởi nắng
vừa ngắm cảnh vật vừa dễ chụp ảnh. Chỉ một mình Bảo-Trân ngồi lặng lẽ nơi khoang
thuyền, lòng ôm nặng suy tư. Từ tầng trên, thấy vắng Bảo-Trân, Ninh leo xuống, chỉ về
hướng trái:
- Thành phố Hạ-Long đấy. Cô không cần lên tầng trên. Cô chỉ ra đây thôi là đủ thấy rồi.
Cô ra ngắm kẻo mai mốt không có dịp trở lại rồi tiếc.
Bảo-Trân bước ra, ngồi gần mũi ghe, kéo cao cổ áo. Trong từng cơn gió của một ngày
chớm Đông, ngoài tiếng máy ghe vi vu, không còn bất cứ âm thanh nào khác. Ánh nắng
chan hòa cả một vùng biển lặng. Mấy hải đảo nhỏ quanh đảo Cát-Bà mập mờ phía
xa. Đối diện với đảo Cát-Bà, về phía trái của Bãi-Cháy, là thị xã Hòn-Gai, nay đổi là
thành phố Hạ-Long, với từng dãy cao ốc san sát nhau, dọc bờ biển. Thành phố Hạ-Long
không có những tòa nhà xây trên mặt nước, không có những thánh đường nguy nga với
tháp chuông cao vời vợi, không có tiếng sóng vỗ lách tách quanh ngôi nhà cổ – nơi nhạc
sư Mozart đã lưu trú một thời – và cũng không có cả tiếng phong cầm dìu dặt theo nhịp
sóng nhấp nhô quanh mấy chiếc du thuyền nhỏ, nhưng sao Bảo-Trân vẫn cảm thấy vui
thích và muốn ghé thăm một lần cho thỏa tính hiếu kỳ.
Ý tưởng ghé thăm thành phố Hạ-Long vừa lóe lên, Bảo-Trân chợt nhận ra sự chộn rộn
trong nhóm du khách. Theo dòng âm thanh thầm thì của nhiều người và những ngón tay
đang chỉ chỏ về phía xa, Bảo-Trân thấy hai mỏm đá mang hình thể như hai chú gà đâu
mặt vào nhau. Đó là Hòn Gà-Chọi. Nhiều du khách đưa máy ảnh lên chụp hình.
Chiếc thuyền vẫn êm đềm len lỏi giữa những mỏm đá, làm sóng sánh mặt nước trong
và xanh như ngọc thạch. Ninh đến ngồi cạnh Bảo-Trân:
- Cô ơi! Hòn Đầu-Người đấy.
Vừa nói Ninh vừa chỉ về hướng trái. Bảo-Trân nhận rõ những góc cạnh của khối đá
mang dạng vừng trán, ổ mắt, sóng mũi, môi và cằm. Ninh tiếp:
- Chốc nữa cháu sẽ chỉ cô xem một gộp đá có hình con chó.
- Giống thật không, hay là mình phải vận dụng trí tưởng tượng?
- Thì cô cứ nhìn xem rồi sẽ biết.
Vừa khi ấy mũi ghe hơi chếch về bên phải. Bảo-Trân để ý, dường như càng xa bờ
nước biển càng trở nên trong và xanh hơn. Khi ghe tiến thẳng, Bảo-Trân thấy một tảng
đá cỡ bằng hình người, đứng im lìm cạnh một hải đảo nhỏ. Trên đảo, lưa thưa vài
khóm cây cằn cỗi. Ghe vừa qua khỏi tảng đá một khoảng ngắn, Ninh gọi:
- Cô. Cô nhìn lui đi. Tảng đá ấy trông có giống con chó không?
Bảo-Trân hơi sửng sốt. Cũng một tảng đá, nhìn từ phía đối diện, Bảo-Trân chẳng thấy
có gì lạ; bây giờ, ở một góc cạnh khác, trong tầm mắt Bảo-Trân là hình tượng một chú
chó đang ngồi, hai chân trước khoanh ngang ngực. Từ đó Bảo-Trân nghiệm ra được
tý “triết lý vụn”: Không nên phê phán bất cứ điều gì, bởi vì dưới nhãn quan của mình,
dù từ bất cứ khía cạnh nào, cũng đều có tính cách phiến diện.
Giữa khung cảnh êm đềm, vắng vẻ này bỗng Bảo-Trân thấy xa xa vài chiếc thuyền
nhỏ. Điều khiến Bảo-Trân nhức mắt là mấy cô chèo thuyền đều mặc quần đen, áo bà
ba nhưng lại mang bao tay, loại mỏng, ngắn đến cườm tay cũng có, và loại dài đến
khuỷu tay cũng có. Bảo-Trân chỉ nhóm thuyền, hỏi Ninh:
- Họ làm gì ở đó, Ninh?
- Đấy là hang Luồn. Ghe mình sẽ ngừng lại. Du khách sẽ xuống mấy chiếc ghe bé xíu
ấy để đi thăm hang Luồn.
- Tại sao vào hang Luồn thì phải mang loại găng tay dành cho những dịp lễ lạc, dạ tiệc?
- Dạ, họ mang cho khỏi hư tay đấy, cô à. Loại găng tay ấy của Trung-Quốc bán thành
ra không mắc lắm đâu.
Ghe lớn vừa giảm tốc lực, cả nhóm thuyền nhỏ chèo nhanh đến. Du khách lần lượt
bước xuống thuyền. Thấy nước xanh biếc, Bảo-Trân nghĩ có lẽ mực nước sâu lắm.
Nhìn quanh chiếc ghe, không thấy bất cứ một cái phao nào cả nên Bảo-Trân hơi do dự.
Ninh dục:
- Không sao đâu. Cô vào xem cho biết.
Ninh quay sang nhóm ghe, tiếp:
- Này, chèo tay thôi nhá. Đừng mở máy tụi Tây nó sợ.
Ánh nắng hơi chếch về phía Tây, tạo bóng mát êm đềm trên một vùng biển lặng. Theo
tiếng mái chèo khua trong nước, từng lượn sóng lăn tăn đuổi bắt nhau từ mạn thuyền
cho đến bờ đá sậm màu.
Đoàn ghe từng chiếc, từng chiếc tiếp nối nhau tiến thẳng đến bờ đảo rồi mất hút. Khi
ghe đưa Bảo-Trân đến gần bờ đảo nàng mới thấy một cửa hang hình chữ nhật, thật
thấp, rộng và dài. Từ cửa hang bên này, xuyên qua lòng núi, Bảo-Trân thấy nước nơi
cửa hang bên kia xanh ngát như màu mạ non. Ghe chầm chậm luồn vào hang. Tiếng róc
rách của những làn sóng nhỏ từ mái chèo lan xa, va vào vách đá là âm thanh duy nhất
trong khoảng không gian tĩnh mịch này.
Qua khỏi cửa hang, mấy cô chèo thuyền đều gác mái chèo. Thuyền trôi dật dờ. Bảo-
Trân nhìn quanh, chỉ thấy núi vây kín, tạo nên một cái hồ tròn trịa. Quanh bờ hồ đều là
đá và cây cằn cỗi; chỉ có một khoảng hẹp gần cửa hang là có cát.
Nếu một lần nào đó Bảo-Trân đã xúc động, bàng hoàng trước sự hùng vĩ của hồ Diablo
ở Seattle thì giờ đây Bảo-Trân cũng lắng hồn vào cõi tĩnh lặng của một phần quê hương
mà suốt hai phần ba cuộc đời nàng chỉ biết tưởng tượng qua những tác phẩm của các
nhà văn di cư.
Trên đường trở lại Bãi-Cháy, sau khi giải đáp vài thắc mắc của du khách, Ninh nhắc
Bảo-Trân khoác áo lạnh, vì trời trở gió. Từ sáng đến giờ, thấy Ninh ân cần với mình,
Bảo-Trân rất có cảm tình nên gợi ý:
- Cô có một thắc mắc, tính hỏi Ninh, được không?
- Dạ được chứ.
- Cô thấy tại các nước khác, khi hướng dẫn du khách ngoạn cảnh, hướng dẫn viên du
lịch thường cầm micro giải thích cho du khách hiểu về nguồn gốc, lịch sử hoặc xuất xứ
của một cảnh trí. Tại sao ở đây họ không tổ chức như vậy?
- Ngành du lịch của nước mình còn phôi thai lắm, cô. Hơn nữa phải có hướng dẫn viên
chuyên nghiệp, Anh văn lưu loát cơ.
- Từ sáng đến giờ cô thấy Ninh nói tiếng Anh cừ lắm.
- Cám ơn cô. Ở đại học cháu đâu có học ngành du lịch.
- Vậy Ninh học ngành nào?
- Dạ, cháu học về tài chính, ngân hàng.
- Ninh tốt nghiệp rồi, phải không? Ngành tài chính, ngân hàng học mấy năm, Ninh?
- Dạ, học năm năm. Cháu ra trường gần hai năm rồi nhưng kiếm việc làm không ra nên
cháu phải làm tạm nghề này.
- Làm hướng dẫn viên du lịch lương khá không, Ninh?
- Dạ, tương đương hai đô-la một ngày. Nhưng phải có chuyến đi, người hướng dẫn
mới được trả lương chứ không phải ngày nào cũng được trả hai đô-la.
- Một học sinh muốn tiếp tục bậc đại học phải hội đủ những điều kiện nào?
- Dạ, sau lớp 12 phải thi ngoại ngữ, văn và toán. Thi đậu xong thì kê khai lý lịch cá
nhân. Nếu được chấp nhận, hai năm đầu sinh viên phải học tổng quát rồi sau đó mới
học chuyên ngành.
- Để được theo đuổi bậc đại học, mỗi sinh viên phải cần khoảng bao nhiêu tiền Việt-
Nam một tháng?
- Dạ, khoảng một trăm nghìn.
- Từ lớp mấy học sinh mới học ngoại ngữ? Và ngoại ngữ nào thông dụng nhất?
- Dạ, hồi trước thì lớp 7; và ngoại ngữ thông dụng nhất là tiếng Nga. Nhưng sau này
tiếng Anh thông dụng hơn. Và kể từ năm 1994, học sinh được dạy Anh văn ngay từ lớp
Một.
- Ở Hà-nội có trường ngoại ngữ nào Ninh cho là khá?
- Trường Nội-Thành có nhiều giáo sư chuyên dạy nhiều sinh ngữ khác nhau nên khá
lắm. Còn trường Ngoại-Thành ít giáo sư nên chỉ được chọn Anh hoặc Pháp ngữ thôi.
Mà cô ơi! Ngay như những người xuất thân từ trường đại học ngoại ngữ, sau khi tốt
nghiệp, cũng phải học Anh văn thêm.
- Ninh có thể cho cô biết qua về điều kiện đào tạo giáo chức không?
- Muốn dạy tiểu học, phải xong lớp 12, rồi học sư phạm hai năm sáu tháng. Dạy phổ
thông cơ sở phải có cao đẳng sư phạm. Dạy phổ thông trung học phải có đại học sư
phạm.
Bảo-Trân chưa kịp hỏi thêm, Ninh đã tiếp:
- Từ nãy giờ cô hỏi cháu hoài; bây giờ cô cho cháu hỏi cô một câu, nhé.
Bảo-Trân cười, quen miệng đáp “Okay”. Ninh cũng cười:
- Cô có phải là nhà báo không?
Mặc dù không phải là nhà báo, Bảo-Trân cũng hơi hoảng, lắc đầu lia lịa:
- Không. Không. Tại sao Ninh lại hỏi cô câu đó?
- Xin lỗi cô nhá. Tại vì cô là đàn bà, du lịch một mình, lại có cách khai thác người đối
thoại hết sức tự nhiên và tài tình.
- Trong xã hội Âu-Mỹ, tinh thần tự lập của phái nữ rất cao và cuộc sống của họ không
bị gò bó lắm. Họ tìm mọi cách để không tùy thuộc vào nam giới. Ở Việt-nam, một
người đàn bà đi chơi xa, đó là một điều lạ; nhưng ở Âu-Mỹ, đó là chuyện thường. Còn
về việc cô hỏi Ninh vài vấn đề có tính cách tổng quát cũng chỉ là sự tò mò dễ hiểu của
một người xa quê hương quá lâu. Vậy thôi.
Ninh cúi đầu lặng thinh, tay vân vê nút áo lạnh. Dường như Ninh có vẻ tiếc là chàng đã
nhẹ dạ để bị Bảo-Trân khai thác. Bảo-Trân không muốn bị Ninh hiểu lầm nên tìm cách
làm thân, hỏi sang địa hạt khác:
- Gần Noel rồi mà sao cô không thấy ai trang hoàng gì cả vậy, Ninh?
- Bao nhiêu năm rồi, Hà-Nội đâu có trang hoàng Noel.
- Vậy à! Ở Saigon Noel đẹp lắm. Họ tổ chức vô cùng trang trọng.
- Bất cứ địa hạt nào, ngay cả sách báo, điện ảnh, âm nhạc, Hà-Nội cũng đi sau Saigon
cả, cô ạ.
- Nhạc Rock và Rap có du nhập vào Hà-Nội được không, Ninh?
- Dạ có, nhưng không thành công và không bằng trong Nam.
- Ninh và những người trẻ nghĩ gì về âm nhạc miền Nam trước 75, mà người Bắc gọi
là nhạc vàng?
- Cháu xin lỗi cô nhá! Chỉ những người cỡ tuổi cô mới thích nhạc vàng; còn chúng
cháu…
Ninh lắc đầu, cười, dừng lại ở đó. Bảo-Trân nghĩ rằng Ninh trả lời rất thật; vì mấy
hôm nay ghé vào tiệm bán băng nhạc và sách báo, Bảo-Trân cũng được mấy cô cậu bán
hàng cho biết như vậy. Bảo-Trân lại hỏi:
- Về sách báo, Ninh nhận xét như thế nào về nhà văn phản kháng Dương-Thu-Hương?
- Dạ, Dương-Thu-Hương là ai, thưa cô?
Bảo-Trân hơi sửng sốt. Một thanh niên tốt nghiệp đại học, tại sao lại không biết gì về
một nhân vật đã từng làm tốn hao giấy mực của báo chí hải ngoại? Bảo-Trân đâm ra
nghi ngờ Ninh:
- Ninh lớn lên tại Hà-Nội, tốt nghiệp đại học, vậy mà Ninh không biết Dương-Thu-
Hương là ai, lạ thật!
Nét mặt Ninh vẫn bình thản, không lộ một tý bối rối nào cả; điều đó cho Bảo-Trân hiểu
rằng Ninh không hề nói dối. Ninh đáp:
- Có thể những người đồng trang lứa với bà ấy biết bà ấy; còn chúng cháu chỉ muốn
chôn vùi quá khứ, nhất là một quá khứ đầy lỗi lầm và thù hận, để hướng về ngày mai.
- Đa số trí thức trẻ ở ngoại quốc cũng nghĩ như vậy.
Được cơ hội hỏi Bảo-Trân một câu, Ninh không chần chừ một giây:
- Riêng cô, cô nghĩ như thế nào?
- Nói thật với Ninh, ngày chú bị đày ra Bắc, cô uất hận vô cùng. Những lần vượt đèo,
trèo núi đi thăm chú, ngoài chút thực phẩm và thuốc men, cô cũng mang theo niềm
thống hận. Khi phải bỏ chú lại để cùng các em đói khát, lênh đênh trên chiếc thuyền
nhỏ để tìm lẽ sống, lòng cô cũng đầy oán hờn. Nhưng dạo này, nhờ đọc những cuốn
sách người ngoại quốc viết về Hà-Nội cô mới thấy rằng không phải tất cả người Việt
sống ngoài Bắc đều là Cộng-Sản. Khi thăm viếng nhiều nơi quanh Hà-Nội và tiếp xúc
với người Hà-Nội, cô mới nhận ra rằng Hà-Nội và người Hà-Nội cũng là nạn nhân của
một tập thể đầy ác tính.
Ninh xúc động, lặng lẽ nhìn Bảo-Trân. Một lúc sau Ninh đáp:
- Cảm ơn cô đã nghĩ như thế.
Bảo-Trân mỉm cười, nhìn Ninh rồi nhìn mông ra biển khơi. Tự dưng Bảo-Trân nhớ đến
chuyến hải hành buồn thảm dọc theo miền duyên hải Trung phần, trên dương-vận-
hạm Nhatrang, HQ 505, vào những ngày cuối tháng Ba năm 1975. Thời gian đó nước
mắt Bảo-Trân đã nhạt nhòa và tim nàng đã quặn thắt theo từng cơn hấp hối của những
thành phố thân yêu. Trong gần một phần tư thế kỷ qua, không thể nào Bảo-Trân có thể
biết được những phần đất ấy đã thật sự hồi sinh hay chưa; nhưng bây giờ, nhìn quanh
vùng quê hương xa lạ này, Bảo-Trân đã nhận thấy được sự hồi sinh muộn màng!
ĐIỆP-MỸ-LINH
by Lý Tưởng Người Việt
Các kiến trúc kỳ lạ, đi ngoài quy luật thông thường khiến người ta rơi vào ảo giác.
Dưới đây là 12 kiến trúc nhà đặc biệt theo kiểu tạo ảo giác:
hn1
Tòa nhà này là một kiệt tác kiến trúc. Nó tạo cảm giác như đang nghiêng mình hứng chịu trận cuồng phong nào đó.
hn2
Một mặt tiền độc đáo với hình ảnh 3D: một người đàn ông và một phụ nữ đang đứng trên ban công. Thực tế, họ chỉ là một phần trong bức vẽ của tường nhà.
hn3
hn4
hn5
Một tòa nhà khác thường trong khu vực Colonia Juarez ở thành phố Mexico. Nó được lấy cảm hứng từ nghệ thuật động và nghệ thuật quang học. Mặt tiền của tòa nhà được gọi là Kiral bao gồm các đường dọc và một thanh ngang ở giữa tạo thành dải sóng, phá vỡ nhận thức thông thường của mặt phẳng thẳng đứng.
hn6
hn7
hn8
Nghệ sỹ Leandro Erlich đã sáng tạo nên một tác phẩm kiến trúc thông minh tại cuộc triển lãm In Perceptions. Người ta có cảm giác có rất nhiều người đang treo mình lơ lửng trên tòa nhà. Nhưng trên thực tế đó chỉ là một tấm gương lớn được đặt ngay bên dưới chân tòa nhà với những bố trí vật dụng giống như lan can, người ta chỉ việc bắt chước những động tác như đang leo trèo hay đứng, ngồi ngay trên tấm gương đó.
hn9
Ảo giác quang học khiến bạn lầm tưởng ngôi nhà đang bị đổ ập xuống. Trên thực tế đó chỉ là do góc chụp.
hn10
hn12
Ngôi nhà lộn ngược từ vỏ bọc bên ngoài tới nội thất bên trong. Nó được gọi là Upside Down House tại Đức