Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013 by Lý Tưởng Người Việt
BL 130113 BGCho đến nay thì quả thật Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại, theo các phần mà tôi sẽ trình bày sau đây:

 

"-Tên: Không đúng, theo văn bản cho biết thì ông Hồ Chí Minh (HCM) ra đời và lớn lên là họ Nguyễn, ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Vậy nhưng, nhiều tài liệu lịch sử lại phát hiện rằng ông là người họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Điều này Đảng cố giấu, thì họ hàng nhà ông lấy làm hãnh diện lại khoe ra và đạp đổ công lao giấu diếm của Đảng.

 

-Tuổi: Không đúng, theo văn bản của Đảng và Nhà Nước, ông HCM sinh này 19/5/1890. Thế nhưng nhiều tài liệu chứng minh rằng ngày sinh này hoàn toàn không đúng, năm sinh càng không. 1 lá đơn ông xin vào học Trường Thuộc địa của Pháp - một ngôi trường đã sản sinh ra rất nhiều những tay sai bậc thầy cho thực dân Pháp - thì ông tự xác định ông sinh năm 1892.

 

-Gia đình, dòng họ: Không đúng, theo những gì Đảng và Nhà Nước tuyên truyền, thì ông HCM quê ở làng Kim Liên, Nam Đàn. Thế nhưng nhiều tư liệu chứng minh rất rõ ràng ông lại có họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An.

 

Chính vì thế, chưa bao Đảng và Nhà Nước dám nói đến ông nội HCM là ai. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mẹ ông Nguyễn Sinh Sắc đã mang thai từ một ông đồ nho ở Quỳnh Lưu, và ông nội Nguyễn Sinh Nhậm ở Kim Liên, chỉ là người tô son, trát phấn lên bào thai ông Nguyễn Sinh Sắc khi bà được gã làm thiếp cho ông nông dân này mà thôi. Điều này được chứng minh bằng việc gần đây, có 1 video được đưa lên mạng về việc con cháu của vợ hai ông Nguyễn Sinh Sắc về Quỳnh Lưu nhận họ hàng. Vậy thì những điều ghi vào lý lịch ông HCM đâu có phải như Đảng đã nói, đây là sự mập mờ tiếp theo.

 

-Sự nghiệp: Theo Đảng vẽ ra, thì ông HCM "đã ra đi tìm đường cứu nước". Thế nhưng,  lá đơn xin học Trường Thuộc địa Pháp, hoàn cảnh ông khi ra đi làm bồi bếp trên tàu sang Pháp lại cho thấy ông ra đi vì hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn. Nếu không hoàn cảnh cha nát rượu và bị án, mẹ chết và anh em tứ tán, thì "con đường đi tìm đuờng cứu nước" của ông Hồ sẽ đến đâu? Chưa nói là thực tế, cái cứu nước đó thực chất là đưa Việt Nam trở thành mắt xích trong phong trào Cộng sản quốc tế. Thậm chí, Đảng còn nói rằng ông HCM là danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận, nhưng thực tế điều này chỉ là sự dựng chuyện, bịa đặt mà không có thực.

 

-Vợ con: Cũng theo những tài liệu Đảng tuyên truyền, thì ông HCM không vợ, không con, không có gia đình… để chuyên tâm lo việc nước.

Vậy nhưng, nhiều tài liệu, những nhân chứng sống đã chỉ rõ không những có vợ và thậm chí có nhiều vợ. Những lời chứng minh của những người từng cùng sống, cùng làm việc và cả những nhà nghiên cứu lịch sử đã khẳng định điều này. Việc ông có vợ cũng là điều bình thường nhưng dưới cái nhìn và nhất là để dựng lên "huyền thoại" Đảng ta đã cố công bóp méo và giấu nhẹm. Vậy đâu phải là sự thật.

 

-Ngày chết: Không đúng ngày ông HCM chết, Đảng và Nhà Nước công bố ngày ông chết, ngày để con cháu ông cúng giỗ ông là ngày 3-3-1969. Vậy rồi mấy chục năm sau Đảng mới công bố ngày 2-9.

 

-Di chúc: Cũng khi ông HCM chết, Đảng cho công bố cái gọi là di chúc theo ý Đảng, đến lúc nào đó thấy không có lợi, Đảng mới công bố là di chúc "dỏm" và công bố bản di chúc khác - chưa hẳn đã là di chúc thật." (Trích bài của Hà Minh Tâm, Nữ Vương Công Lý).

 

-Tư tưởng: Sau khi hệ thống Cộng sản thế giới sụp đổ, CSVN đưa ra cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh"; nhưng trong thực tế không có cái gọi là "tư tưởng HCM".

 

Theo lý thuyết gia Marxist Nguyễn Văn Trấn, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Chiến khu IX trong kháng chiến chống Pháp, nguyên Phó bí thư Xứ ủy Nam kỳ, người cùng thời với lý thuyết gia Marxist Trần Văn Giàu. Ông này đã viết trong cuốn "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" về chuyện "tư tưởng HCM như sau:

 

"Trong tư cách Tổ trưởng Đại biểu Đảng CSVN năm 1951, lúc ấy vừa tái công khai dưới cái tên Đảng Lao động VN, ông đã gặp ông HCM.

"Tôi báo cáo tình hình, anh em trong tổ nói bộ hết duyên rồi sao mà lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ đạo cho Đảng ta. Nhưng anh em giao là nói trong tổ cho nhau nghe thôi chớ không phát biểu ở hội trường. Và đã lỡ miệng nói ở đây một điều như vậy, trong quan hệ quốc tế này thì ngậm miệng đừng nói là hơn.".

HCM nhắm hí mặt như Staline khi gặp vấn đề khó nghĩ, vì tìm chữ. Tôi thưa tiếp: "Có đồng chí nói hay là ta viết 'tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh' có phải hay không!"       

Câu nói của tôi làm cho mắt ông già rạng lên theo lời đáp cấp kỳ: "Không, tôi không có tư tưởng gì khác ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin. Tôi chỉ có phương pháp để giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Như tôi thường nói "lạt mềm buộc chặt" đó là phương pháp cột cái gì đó của tôi. Mà cho đến như vậy thì cũng có sự chỉ biểu của phương pháp biện chứng! Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, về thế giới xã hội con người thì tôi là học trò của Mác, Anghen, Lê-nin, chớ làm gì tôi có tư tưởng ngoài triết học Mác".

 

Ai đã từng đọc qua "Hồ Chí Minh toàn tập" chắc đều nhận thấy rằng đây chỉ là một tập hợp hổ lốn tất cả những bài nói, bài viết của HCM; mà trình độ nhiều bài đã làm cho nhiều người đọc phải ngượng đỏ mặt.

 

Một ví dụ nhỏ: khi có học viên trong lớp nghiên cứu chính trị dành cho các trí thức CS hỏi HCM: "Dân chủ tập trung là gì?" Hồ trả lời: "Như các cô, các chú có đồ đạc tài sản gì đó thì các cô chú là chủ, đó là dân chủ. Các cô chú không biết giữ, tôi giữ dùm cho. Tôi tập trung bỏ vào rương. Tôi khóa lại, bỏ chìa khoá vào túi tôi đây. Đó là dân chủ tập trung!" (Nguyễn Văn Trấn, sđd).

 

-Sự nghiệp văn chương: Hai cuốn sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện"  T.Lan và quyển viết về "Đời họat động của Bác Hồ" ký tên Trần Dân Tiên cho thấy HCM là một tay đạo văn có "lai-sân".

 

Về thơ thì chỉ là thi ca hò vè và rất nặng mùi như các bài thơ:

 

"Hòn đá to, hòn đá nặng

Một người vác không đặng

Hòn đá to, hòn đá nặng

Hai người vác, vác phải đặng"

"Chị em phụ nữ ta ơi

Thi đua yêu nước ta thời tiến lên".

 

"Đau khổ chi bằng mất tự do

Đến khi buồn ỉa cũng không cho

Cửa tù rộng mở không đau bụng

Đau bụng thì không mở cửa tù."

 

Đó là chưa kể "chuyện "Bác" Hồ "thuổng" tập thơ "Ngục Trung Nhật Ký" của một bạn đồng tù và "đỡ nhẹ "Bản án chế độ thực dân Pháp" của ai đó.

*

Qua phần trình bày trên, mọi người đã thấy rõ HCM chỉ là huyền thoại do chính ông ta và Đảng CSVN tô son, trát phấn, và đến nay đã bắt đầu rệu rã.

 

Mới đây, qua bài "Bác Hồ mất giá", có thân hữu đề nghị với tôi là tiếp theo cái bảng ghi "Đây là nơi yên nghỉ của một người cộng sản thành thật", nên làm thêm tấm bảng:

 

"ĐÂY LÀ NƠI YÊN NGHỈ CỦA TÊN ĐẦU SỎ BÁN NƯỚC!"

 

Phía dưới tấm bảng nên cho đăng lại công hàm bán nước do Hồ Chí Minh sai Thủ Tướng VC Phạm Văn Đồng viết gửi với nội dung như sau:

 

"CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG QUỐC

 

Sáng ngày 21-9-1958, đồng chí Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tại Trung Quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bằng Phi, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của Chính phủ ta:

 

"Thưa đồng chí Chu Ân Lai,

Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc.

Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa trên mặt biển.

Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng.

Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

PHẠM VĂN ĐỒNG

Thủ tướng Chính phủ

nước Việt nam dân chủ cộng hoà".

 

Cũng xin đề nghị các vị đương kim lãnh đạo đảng CSVN là quý vị nên dịch CÔNG HÀM BÁN NƯỚC ra nhiều thứ tiếng để du khách đến viếng "Lăng Bác" có thể hiểu vì sao mà "Bác Hồ" đã được toàn dân "ngưỡng mộ tài bán nước" của "Bác" Hồ Chí Minh thời Việt Nam xã hội chủ nghĩa còn hơn cả Lê Chiêu Thống trong thời đại quân chủ phong kiến.

 

LÃO MÓC
by Lý Tưởng Người Việt

Đền Thượng
Đền Hùng là thánh tích của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay
Đền Hùng thờ Quốc Tổ, nơi linh thiêng bậc nhất của người dân Việt Nam, từng bị người phương Bắc đặt một 'đạo bùa yểm' chôn dưới nền đất, một quan chức coi giữ khu đền này khẳng định với báo chí trong nước.
Thông tin này chỉ được tiết lộ sau khi có áp lực từ dư luận đòi giải thích về một phiến đá bí ẩn đặt một cách có chủ đích ngay tại điện thờ của đền Thượng, đền chính trong quần thể Đền Hùng tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

 

Ông Nguyễn Tiến Khôi, người trước đây là quản lý cao nhất ở đền Hùng và là người nắm rõ nhất về phiến đá bí ẩn này, giải thích rằng đó thật ra là một đạo bùa để trấn lại bùa yểm của người phương Bắc.

Bị yểm 600 năm

 
Từ đó ông Khôi đã nêu rõ các chi tiết về 'đạo bùa yểm' này mà lần đầu tiên được tiết lộ với công chúng.
Nói trên trang mạng của tờ Tiền Phong và báo mạng Đất Việt, ông Khôi cho biết trong đợt tu sửa đền hồi năm 2009, các công nhân đã phát hiện 'một viên gạch lạ có in chữ Hán' lúc tháo dỡ toàn bộ bệ thờ trên đền Thượng.
Viên gạch lạ này đã được ông Khôi gửi sang cho ông Nguyễn Minh Thông, vốn là đại tá quân đội và hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng phương Đông, để nhờ nghiên cứu.
Trong báo cáo giải trình của ông Thông cho lãnh đạo tỉnh Phú Thọ được báo Tiền Phong dẫn lại thì trung tâm của ông 'đã hội thảo nhiều lần' với 'một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm' và đi đến kết luận rằng viên gạch là 'do đạo sỹ của quân Nguyên Mông đem đến đặt từ cuối thời Trần', tức là tính cho đến nay là hơn 600 năm.
"
Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân. Việc này (đặt đá trấn yểm) đã được các lãnh đạo trung ương, tỉnh đều chứng kiến và biết."
Nguyễn Tiến Khôi, cựu giám đốc Ban quản lý đền Hùng
Theo báo cáo này thì 'Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng'.
Trên viên gạch có ghi dòng chữ Hán 'Đánh đổ đức sáng Vua Hùng' và hiện tại vẫn còn được lưu giữ tại Bảo tàng đền Hùng, Đất Việt dẫn lời ông Khôi cho biết.
Do đó, để hóa giải, ông Thông đã đề xuất lên Ủy ban tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa tìm một đạo bùa khác để trấn yểm. Đề xuất này, theo ông Khôi, đã được những vị có chức trách đồng ý và ông Thông đã lên kế hoạch thực hiện.
Đạo bùa trấn yểm đó chính là phiến đá đặt trên bệ bát quái trong đền Thượng vốn đã gây xôn xao dư luận trong nhiều ngày qua. Công chúng không hề biết nguyên do cũng như ý nghĩa của phiến đá này nên dẫn đến tâm lý e ngại.

Ý nghĩa gì?

Mặt trước
Mặt trước của phiến đá bùa là trận đồ bát quái cùng với thần chú Mật tông
Trong báo cáo của mình, ông Thông đã giải thích về nội dung bùa trấn này như sau:
Phiến đá được chọn là do giám đốc một công ty đá quý ở Hà Nội có tên là Nguyễn Đình Khảm cung tiến. Đây là viên đá xanh 'có nhiều năng lượng tốt lành, có khả năng hóa giải hung khí và tiếp nhận năng lượng của tinh tú trời đất'.
Mặt trước vẽ trận đồ bát quái của danh tướng Trần Hưng Đạo dựa trên tác phẩm 'Binh thư yếu lược'của ông và chòm sao Bắc Đẩu. Trên mặt trận đồ là câu thần chú Phật giáo Mật tông.
Mặt sau của đạo bùa này là ấn vuông của Vua Hùng đóng ở trên và lá bùa giải bách họa vẽ ở phía dưới.
Ông Thông giải thích rằng linh khí của Đức Phật kết hợp với linh khí của Đức Thánh Trần sẽ 'hóa giải được' đạo bùa yểm của người phương Bắc và sẽ giúp cho vận nước được hưng thịnh.
Ông Nguyễn Tiến Khôi được Đất Việt dẫn lời nói ông cam đoan 'viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm'.
"Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân," ông nói và cho biết việc này đã được 'các lãnh đạo trung ương, tỉnh đều chứng kiến và biết'.

Ký ức dân gian

"
Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt."
Nhà sử học Lê Văn Lan
Trao đổi với BBC từ Hà Nội, nhà sử học Lê Văn Lan cho biết chuyện người phương Bắc tìm cách yểm bùa nước Nam là 'có thực' mà 'ý thức dân gian còn ghi lại'.
Chính sử không hề đề cập đến việc này nhưng trong ngoại sử và sách địa lý thì có chép, ông Lan nói.
"Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt," ông giải thích.
"Tôi đã đi điền dã và sưu tầm nhặt nhạnh được nhiều lời kể dân gian không chỉ tập trung vào Cao Biền (quan đô hộ đời Đường) mà còn cả các đời khác rằng các thầy địa lý người Tàu đi vào đây (nước Nam) bán thuốc đeo quang gánh, đội nón lá rộng vành," ông nói.
"Họ đi đến đâu thường hay xem đất, tìm đất... sau đó chôn bùa hoặc đào đất để phá long mạch."
Mặt sau
Đạo bùa này được cho là trấn bùa xấu và giúp vận nước hưng thịnh
Tuy nhiên đối với khu vực đền Hùng mà ông Lan nói ông đã 'điền dã rất kỹ từ nửa thế kỷ nay' thì ông chưa sưu tầm được truyền thuyết, lời kể hoặc hiện vật nào 'chứng tỏ người Tàu đã sang đây để yểm bùa hay triệt phá gì'.
Cho nên ông Lan cho rằng phiến đá trấn yểm đặt trong đền Thượng 'nên được di dời ra khỏi đền' vì 'đấy là thứ mới tạo chứ không phải có từ trước'.
Tiến sỹ Ngô Đức Thịnh, ủy viên Hội đồng Di sản quốc gia, cũng có cùng ý kiến với ông Lan về cách xử lý đối với phiến đá.
"Đó là một hiện vật không nguyên gốc," ông nói với BBC, "Cầu may thì cũng được thôi nhưng không thể đưa vào một cách tùy tiện."
"Quan điểm của tôi là nếu như chưa biết rõ hòn đá này là gì và không gắn với đền thờ Vua Hùng thì tốt nhất là nên đưa ra ngoài," ông nói.
Hiện Ban quản lý đền Hùng đang tính đến sau ngày Quốc giỗ mùng 10/3 Âm lịch sẽ tổ chức hội thảo khoa học để các chuyên gia và các nhà khoa học bàn luận rõ ràng về vấn đề này.
Tuy nhiên, TS Thịnh cho rằng 'lĩnh vực tâm linh rất mơ hồ khó mà đem ra một hội thảo khoa học'.
BBC
by Lý Tưởng Người Việt
Nghi ngờ trước việc căn phòng của 4 cô gái quê Tuyên Quang và một "cậu em con dì" người Thái Bình thường xuyên phát ra tiếng rúc rích khác thường, đám sinh viên trong xóm trọ đặt camera quay lén...
Kiều Hưng (quê Nam Trực, Nam Định) có thể coi là một trong những sinh viên già nhất tại xóm trọ Phùng Khoang (Từ Liêm, Hà Nội). Ở tuổi gần 30, bạn bè cùng lứa hầu như đều đã yên bề gia thất thì Hưng vẫn cắp cặp đi học cùng với 9X.

Vốn gia đình Hưng thuộc hàng trung lưu, bố mẹ chẳng ai làm nghệ thuật song lại nảy nòi ra ông con có tính lãng tử. Hồi thi đại học, Hưng chỉ thích thi vào các trường nghệ thuật, song bố mẹ ép bằng được thi vào trường Bách khoa và dĩ nhiên cậu trượt vỏ chuối.

Năm sau, Hưng quay ra thi ĐH Sư phạm và học được hai năm thì lại bỏ ngang. Rồi cậu lại quyết tâm thi vào trường Mỹ thuật công nghiệp nhưng học đến năm thứ 3 thì dính vào một vụ đánh nhau, bị buộc thôi học. Hiện Hưng tạm yên vị tại một trường Trung cấp Kế toán.

Hơn chục năm lăn lộn ở đất Hà Thành, lê la khắp các khu nhà trọ từ Mai Dịch (Cầu Giấy) cho đến Đê La Thành (Đống Đa), rồi lại vòng xuống tận Mễ Trì (Từ Liêm)... Hưng là một "từ điển sống" của dân trọ học. Cư dân xóm trọ yêu mến đặt cho cái nickname là Hưng "già". Chẳng những già về tuổi mà Hưng còn thuộc loại "ma xó", ai, cái gì, ở đâu cũng biết.

Nhiều khu trọ sinh viên ở lẫn lộn cả nam lẫn nữ.
Nhiều khu trọ sinh viên ở lẫn lộn cả nam lẫn nữ.
Một ngày cuối xuân đầu hạ, Hưng bỗng rủ đến nhà chơi. Nhưng tới nơi, cửa nhà khóa im ỉm, mấy cậu sinh viên cùng xóm vội kéo vào phòng, tranh nhau kể về một câu chuyện quái lạ vừa xảy ra. Theo đó, một đêm khi cả xóm đang say sưa ngủ thì nghe thấy một tiếng hét thất thanh từ căn phòng đầu hồi. Sau đó là tiếng lạch xạch cửa và một bóng người lao thẳng ra khỏi khu trọ.

Căn nhà đó vốn trước chỉ có một nam sinh thuê, sau đó cậu chàng đăng tin cần người ở ghép và ít lâu sau xuất hiện cậu sinh viên năm thứ nhất đến gõ cửa xin ở cùng. Một thời gian dài, hai cậu vẫn ngày hai buổi đi học, tối về quây quần cùng anh em bạn bè, rồi cũng đàn sáo rất xôm trò. Vậy mà bỗng dưng lại xảy ra sự lạ như thế, ai cũng thậm thụt bàn tán.

Nhân vật chính vẫn tỏ ra rất bình thường, như không có chuyện gì xảy ra. Riêng Hưng "già" cứ tủm tỉm cười, song cũng nhất định không chịu bật mí. Chập tối, Hưng mới khật khưỡng từ đâu về. Hưng bảo, tiếp xúc một thời gian thì phát hiện cậu sinh viên có biểu hiện của một gay kín (đồng tính nam). Dạo ở một mình cậu sinh viên đó còn nhiều lần mời Hưng sang chơi, ngủ qua đêm.

Bởi vậy, khi câu chuyện "đạp cửa bỏ chạy giữa đêm khuya" xảy ra, mười phần thì Hưng đã đoán được tám, chín. Sau hôm diễn ra vụ việc, Hưng được cậu sinh viên "bỏ của chạy lấy người" nhắn tin nhờ thu dọn hộ cậu ta sách vở, quần áo, đồ dùng cá nhân thì mọi việc rõ mười mươi. Cậu sinh viên chân ướt chân ráo không tài nào tưởng tượng được rằng đang đêm lại có một tay đực rựa mò mẫm, cởi áo quần rồi đòi… "yêu" mình.

Sinh viên cần cảnh giác trước những lời mời ở ghép.
Sinh viên cần cảnh giác trước những lời mời ở ghép.
Cũng theo Hưng, so với những ngày cậu chập chững tay đùm tay nải từ quê lên trọ học, thì các khu nhà trọ sinh viên hiện thay đổi khá nhiều. Nếu như trước đây các nhà trọ thường được xây dựng cẩu thả, tường "mười" mỏng dính, trát vội trát vàng; mái lợp phibro xi măng vừa nóng vừa hôi thì bây giờ đa số là những căn nhà được xây tử tế, cẩn thận hơn. Đặc biệt, những phương tiện sinh hoạt giải trí từng một thời xa xỉ ở nhà trọ sinh viên như bình tắm nóng lạnh, điều hòa nhiệt độ hay tivi LCD, tủ lạnh, máy giặt... giờ đã xuất hiện tại rất nhiều phòng trọ.

Kèm theo đó cũng là sự thay đổi chóng mặt về phong cách sống của sinh viên. Một thời chuyện sống thử chỉ diễn ra lén lút. Cô cậu nào mến nhau lắm cũng vẫn phải giấu giếm, thỉnh thoảng mới dám ở nhà người yêu một vài ngày rồi lại về phòng mình. Còn bây giờ, các cặp ngang nhiên chuyển hẳn sang ở với nhau như vợ chồng. Một số cô cậu còn cho rằng như thế mới là hiện đại, tân tiến và đúng mốt.

Thậm chí, Hưng còn cho hay, hiện nay nổi lên hiện tượng "biến thái" của trò sống thử, mà không thấy tận mắt thì khó tin nổi. Rồi Hưng dẫn sang một khu xóm trọ ở Yên Hòa (Cầu Giấy, Hà Nội). Thoạt nhìn bề ngoài cũng bình thường như bao khu nhà trọ khác. Đó là ba dãy nhà trọ được xếp theo hình chữ U, ở giữa có sân sinh hoạt chung, để xe cộ... Tại đây, có một căn phòng mà theo Hưng là "quái gở" bậc nhất trong đời ở trọ của hắn.

Căn phòng rộng chừng 20 m2 được một nam sinh trường giao thông thuê. Ít lâu sau, cậu chàng rủ thêm hai chàng trai cùng quê ở vào để chia sẻ tiền phòng. Tiếp đó, hai cậu này lại rủ thêm hai thanh niên nữa vào ở cùng.

Ngoài cậu sinh viên trường giao thông thì 4 cậu còn lại chẳng biết học ở đâu nhưng giờ giấc của họ rất bất thường. Lắm khi cả ngày ngủ ở nhà, đến tối mới rủ nhau đi đâu đó gần sáng lại khật khưỡng mò về. Đỉnh điểm là một ngày nọ bỗng dưng căn phòng xuất hiện một cô gái còn rất trẻ, khuôn mặt ưa nhìn. Cô ta có phong cách thời trang khá sexy và nói giọng miền Nam. Cô gái tự xưng là người yêu của một cậu; và rồi cứ ở lỳ đó hết ngày nọ đến tháng kia. Cả khu trọ được một phen "mắt tròn mắt dẹt" trước kiểu sống năm ông một bà của họ.

Nhưng chỉ được một thời gian, ở phòng kế bên lại có chuyện cũng quái gở không kém. Đó là căn phòng của 4 cô gái quê Tuyên Quang đột nhiên thu nạp một chàng thanh niên người Thái Bình. Mặc dù họ lấp liếm rằng cậu thanh niên là "em con dì" của một cô gái trong phòng, nhưng đám thanh niên tinh nghịch trong xóm thì không dễ tin đến như thế. Họ lén đặt một chiếc camera.

Ít ngày sau, cả xóm trọ được "no mắt" thưởng thức những cảnh nóng hổi thu về từ chiếc camera quay lén trong căn phòng "thường xuyên phát ra những tiếng rúc rích khác thường" kia. Choáng váng trước đoạn phim diễn những trò "chỉ có ở bên Tây", Hưng mò mẫm điều tra một thời gian thì phát hiện "cậu em con dì" té ra là một công tử con nhà giàu cũng ở Tuyên Quang. Cậu ta có sở thích quái đản là quan hệ với nhiều cô gái một lúc, và đã chọn luôn căn phòng của mấy cô gái cùng quê làm bãi đáp.

Khi đoạn phim đến tai bà chủ, 4 cô gái kia bị đuổi thẳng cổ. Nhưng cũng chẳng mất nhiều thời gian, cư dân xóm trọ đã lại thấy 5 cô cậu thuê được một căn phòng, cách chỗ cũ chỉ vài chục mét.

Một chuyên gia tâm lý thuộc Trung tâm Tư vấn Linh Tâm cho biết, sự xuất hiện của lối sống bầy đàn là hậu quả của những suy nghĩ lệch lạc, thậm chí bệnh hoạn trong một bộ phận giới trẻ. Họ chỉ muốn thỏa mãn ý thích, nhu cầu nhất thời mà không lường trước những hậu quả có thể xảy ra. Đó là có thai ngoài ý muốn, lây lan bệnh truyền nhiễm... Đây là lối sống cần phải được ngăn chặn, loại trừ.

ĐV
Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013 by Lý Tưởng Người Việt
Tin Huế- Thứ trưởng Ngoại giao Hoa KỳDan Baer cho biết đã gặp linh mục Nguyễn Văn Lý trong tù sau khi tới Việt Nam dự đối thoại song phương về nhân quyền. sb7-large-content copy copy copy copy copy copy copy copy copy copy copyBộNgoại giao Hoa Kỳ xác nhận hôm thứ bảy vừa qua, một ngày sau đối thoại nhân quyền, ông Baerđã không thể tiếp xúc với hai nhà hoạt động Nguyễn Văn Đài và Phạm Hồng Sơn do sự ngăn cản của công an Việt Nam. Phó phát ngôn viên bộ Ngoại giao Patrick Ventrell nói ông Dan Baer đã gặp được Cha Lý trong tù nhưng Hoa Kỳ lo ngại vì nhà cầm quyền Việt Namđã ngăn chặn các nhà hoạt động Nguyễn Văn Đài và Phạm Hồng Sơn gặp ông Dan Baer như đã hẹn. Điều này thực sự nhấn mạnh chuyện Việt Nam cần có những tiến bộ liên tục đểtuân theo các cam kết và nghĩa vụ nhân quyền quốc tế. Ông Ventrell cũng nói Hoa Kỳ và Việt Nam đã có đối thoại nhân quyền thẳng thắn và xây dựng hôm thứ sáu vừa qua, và đã đề cập tới một số vấnđề trong đó có tự do tôn giáo, pháp quyền, tù nhân lương tâm, quyền của người lao động và tự do biểu đạt. Linh mục Lý hiện đang thi hành bản án tám năm tù vì tội danh tuyên truyền chống nhà nước mà ông bị tuyên hồi năm 2007. Cả hai nhà hoạt động Phạm Hồng Sơn và Nguyễn Văn Đài đềuđã từng chịu án tù nhiều năm vì những cố gắng thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam. Cảnh sátđã tạm giữ ông Sơn trong khoảng 5 tiếng trong khi lập chốt chặn nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ tiếp xúc với ông Đài, nhằm ngăn hai nhà hoạt động tới gặp ông Dan Baer và các quan chức Hoa Kỳ khác.
by Lý Tưởng Người Việt
Tin Phú Thọ - Một sự kiện đã gây xôn xao trong dân chúng khi người dân cho biết có kẻ lạ đã đem một hòn đá đến yểm tại đền Thượng ở khu đền thờ vua Hùng Vương ở Phú Thọ trong suốt 5 năm qua. Nhiều người cho rằng đây là một bùa phép của Trung cộng để yểm vào ngôi đền quan trọng nhất của Việt Nam. Hòn đá được diễn tả cao khoảng 50 centimét, bề rộng 35 centimét, hình cánh buồm đặt trên bệ khá đẹp, đặt trong đền Thượng. Mặt trước và sau của hòn đá có ký tự cổ, dấu ấn vuông, họa tiết phức tạp khó hiểu. Những người đi lễ tại đền Hùng đã thắc mắc về hòn đá này, thì được Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng nói hòn đá này do một người ở Hà Nội cung tiến năm 2009, khi di tích này đang được tu sửa. etsb1  12 -large-content

Theo các chuyên gia của viện nghiên cứu Hán nôm thì hình thức bên ngoài cho thấy hòn đá là đạo bùa cát, cầu giải tai ương, thỉnh cầu phúc đức, tuy nhiên khi đặt tại một nơi nào thì bùa này có thể phản lại ý nghĩa trên. Tục thờ đá là tín ngưỡng nguyên thủy không chỉ ở Việt Nam mà phổ biến trên khắp thế giới. Hòn đá có hai mặt, mặt trước phía trên có dấu ấn hình vuông Tổ Vương Tứ Phúc, chữ nghĩa cũng giống như hình dấu trên tờ ghi công đức tu bổ đền Hùng; bên trái là dòng chữ Phạn là câu thần chú của Phật giáo Mật tông, dòng chữ Hán là Bách giải tiêu tai phù, nói lên rằng đây là một đạo bùa giải hết mọi tai ách. Còn chữ lớn ở giữa thì không giải thích được. Mặt sau là các hình tinh tú, bên dưới là vòng tròn nhỏ giống bát trận đồ của Khổng Minh thời Tam Quốc.

Chân của hòn đá là hình bát quái, quẻ càn. Như vậy hòn đá là đạo bùa có sự pha trộn giữa Phật giáo Mật tông, Đạo giáo, phù thủy, trận đồ bát quái của Khổng Minh, cho thấy là một đạo bùa tổng hợp. Như vậy hòn đá này có thể là bùa độc, hoặc bùa trấn yểm, triệt hạ long mạch, linh khí, với những hình thù, văn tự xa lạ với tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt, có thể tiềm ẩn những phù thuật sâu xa. Sau khi tin này được tung ra, một số người đã đòi phải di dời hòn đá ngay lập tức ra khỏi khu vực đền Hùng để tránh những tác dụng xấu tới khu di tích linh thiêng này, thế nhưng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam vẫn chưa quyết định việc này và nói phải xin ý kiến của Cục Di sản, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.
by Lý Tưởng Người Việt
Tin Saigon - Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa gặp nguy: nhà nước Cộng sản Việt Nam bắt đầu cắm các cọc xi măng để tiến hành một dự án xây xa lộ xuyên tâm nghĩa trang này ở khu D3. Một bản tin trong đó kèm nhiều hình ảnh cho thấy các cọc đã được cắm nhiều nơi, và nhiều nơi sơn vạch đỏ vào nhiều chân mộ của tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa để định hướng làm xa lộ. Trước đó ngày 7 tháng 3, Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon là Lê Thành Ân đã dẫn đầu một phái đoàn đã viếng thăm Nghĩa Trang Quân đội ở Biên Hòa, tin này làm cho nhiều người phấn khởi khi cho rằng đang có những vận động để Hà Nội tôn tạo và duy trì phần nghĩa trang này, trong suốt 37 năm qua đã bị bỏ hoang sau khi bộ đội miền Bắc chiếm đóng kihu vực này. ysb1  1 -large-content copy copy

Căn nhà mà bộ đội miền Bắc xây để ở ngay dưới chân Nghĩa Dũng Đài trước đây cũng đã bị dẹp bỏ, trả lại gần nguyên vẹn cảnh quang cho Nghĩa Dũng Đài khi xưa. Thế nhưng nay với việc cắm cọc vào đầu tháng 4 lại gây lo ngại khi có những dấu hiệu báo rằng Nghĩa Trang Biên Hòa đang lâm nguy. Trong tuần qua một toán nhân viên của Giao Thông Vận Tải huyện Dĩ An nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa tọa lạc theo địa danh hành chánh của chính quyền Hanoi hiện tại, đến vòng ngoài Nghĩa Trang cắm cọc với 4 chữ viết tắt là giải phóng mặt bằng, có nghĩa là tịch thu đất để tiến hành các dự án xây cất.

Họ cũng vào cả bên trong Nghĩa Trang, khu D3, cắm 1 loạt cọc như thế, khoảng giữa 2 hàng cọc là 22 thước. Toán nhân viên này cho hay nhà nước sẽ làm 1 con đường đi từ phía ngoài xa lộ Saigon Biên Hòa đâm vào trong đất Nghĩa Trang và xuyên qua Khu D3 để đi lên Bình Dương. Hiện chưa rõ sự kiện ra sao nhưng lời báo động đang làm cho nhiều người lo âu là nhà cầm quyền Cộng sản sẽ xóa sổ nghĩa trang này.
by Lý Tưởng Người Việt
Lời Giới Thiệu: Truyện ngắn Chị Cả Bống xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài "nổi loạn" này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại số báo ngày 8/6 này đang được phô tô truyền tay nhanh chóng tại Hà Nội, vượt xa cả số phát hành chính thức là 2000 tờ. Những số báo đã lỡ gởi ra trước khi có lệnh tịch thu mà các đại lý nhanh tay giấu được ngay lập tức được bán với giá gấp 10 lần ( 20. 000 đồng một tờ). Tại Sài Gòn nơi tác giả lấy bối cảnh để viết, giá lên gấp hai mươi, ba mươi lần.

                       

Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là "Hòa khí". Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:

-Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.

Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả… Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.

Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai; 5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khóa đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp… Anh lại lần lượt khóa tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.

Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây ?

Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.

-Kiểm tra giấy tờ! Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.

Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm…

Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:

-Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù -Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.

Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ… Thôi đành "thu xếp" cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù ?

-Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai…

Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão
dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:


-Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: -Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?

Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:

-Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.

Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết "nghị định 01" đến "thông tư 04" gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hóa !

Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương… bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:

-Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi…

Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này…

Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.

Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:

-Biết ai là phúc với họa gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.

Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?

Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:

-Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột -một người nói

-Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ -một người khác nói

-Thôi được rồi! Người thứ ba nói -các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: -19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương ( đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng "quên" họ là được.

Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:

-Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu -kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu

Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:

-Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A… anh… à bác ngồi chờ cháu một lát.

Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:

-Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.

Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi… chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:

-Trực ban cấp cứu phải không ? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.

Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc… giờ… ngày – Người đưa đến: Phạm văn A -bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:

-Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có…

Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:

-Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích

Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:

-Dạ… dạ… à thế ạ… Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.

Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã… làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác… "Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá". .. Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu… một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó :

-Các người đã mổ cháu tôi… các người đã… Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt

-Híc… viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã –

Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại

-Nhưng tôi… kỹ sư Hoàng chưng hửng… vậy còn cháu tôi?

-Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.

Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên "Nhân nghiã đường" hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:

-Tùy bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm… chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.

-Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời

-Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu -tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.

-Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên ?

-Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện -ông chủ Nhân nghiã đường giải thích -bệnh viên có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay… tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.

-Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm "Nhân nghiã đường". Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:

-Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.

Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.

Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:

-Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết

-Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn ? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:

-Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông "lo" hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà…

-Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng -nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.

Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.

-Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không ? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra… quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói -một người trong bọn bảo

-Tại sao lại phải đến chiều ? Làm ngay trong sáng nay không được sao ? kỹ sư Hoàng hỏi lại

-Hì các bác này đúng là chưa "chết" lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ… một người khác giải thích -mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là con nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng… không thì cứ đợi đấy.

Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên:

-Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:

-Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tùy theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.

Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:

-Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.

Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông… kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần… "Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi… một tiếng, hai tiếng… Người đàn bà chợt quay phắt lại… Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:

-Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ… mẹ không đến được với con… con ơi

Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại: -Em đây mà, Hoàng đây mà!

Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con… dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào… Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:

-Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá… biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình.

Phạm Lưu Vũ

 
by Lý Tưởng Người Việt

babui 092012 4Năm ngoái, một ông bạn cải tạo về thăm quê hương sang có than thở về tinh trạng kỳ thị tại miền nam hiện nay. Ông bạn nói: "Nay tình trạng kỳ thị tại Sài Gòn thật là nặng nề, miền Nam đã bị Bắc Kỳ vào cai trị, họ lấy hầu hết nhà cửa ngoài phố và đẩy người miền Nam đi những vùng xa xôi khác", ông bạn này người miền Nam, còn tôi người gốc miền Bắc, ông ta không thể nói hết lòng mình vì còn chút nể nang tôi.

Gần đây, một bài viết của một người về Việt Nam cho biết tình trạng quê nhà, tác giả nói nay tại Sài Gòn người miền Bắc kéo vào rất đông, họ là những người giầu có và quyền thế nhất Sài Gòn hiện nay, họ làm chủ hầu hết các nhà cửa to lớn của Sài Gòn và các nhà hàng lớn, các cơ sở thương mại, các cơ quan nhà nước... Đó là những cán bộ cao cấp và bà con thân thụộc của họ được đưa vào đây để tranh giành hết những chức vụ béo bở, những công việc hái ra tiền….Tác giả cho biết vào các cửa hàng lớn, các .. cơ quan chỗ nào cũng thấy toàn là Bắc Kỳ, nói tóm lại họ là giai cấp giầu có thống trị tại Sài Gòn hiện nay. Mặc dù chưa được chứng kiến tận mắt nhưng tôi tin ngay lời tác giả trong bài viết.

Tuần vừa qua, một người bạn đã về thăm quê Nha Trang năm ngoái cũng cho tôi biết tại Nha Trang bây giờ toàn là Bắc Kỳ, họ giầu sụ, buôn to bán lớn, chiếm giữ hầu hết các cơ sở thương mại kinh tế của Nha Trang. Họ giữ các chức vụ nhiều lợi lộc, chiếm cứ hầu hết các khu phố xá sầm uất và đẩy những người cũ đi xa như vùng kinh tế mới hoặc những vùng đất quê mùa khô cằn như sỏi đá. Người bạn cũng xác nhận cho tôi thấy Nha Trang nay là một thành phố đã bị Bắc Kỳ cai trị và chiếm đoạt hết tài sản, những nguồn lợi béo bở của thị xã du lịch này. Nếu chúng ta hỏi những người đã về thăm các tỉnh khác như Đà Lạt, Đà Nẵng, Biên Hòa… người ta cũng sẽ nói tình cảnh tương tự như thế.

Khi đọc bài viết và nghe người ta kể lại những sự thật phũ phàng như trên, tôi tin ngay vì tôi cho rằng đó là những nhận xét khách quan vô tư nhất.

Ngược dòng thời gian 40 năm trước vào những ngày sau vụ Mậu Thân 1968, hồi ấy chúng tôi là sinh viên, được huấn luyện quân sự hai tuần và đưa vào Chợ Lớn canh gác theo chương trình Nhân Dân Tự Vệ. Một buổi, tối đứng gác trên sân thượng của nhà thương gia trong khu phố Tầu, anh bạn cùng gác với tôi nhìn những dẫy phố nguy nga, sầm uất của Chợ Lớn, trước cảnh giầu sang tráng lệ của Tầu Chợ Lớn, anh ta thốt lên:

"Đứng địa vị thằng Việt Cộng tao cũng đánh đến cùng, đằng nào cũng đã là thằng cùng mạt, chiếm được thì hưởng hết." Ý anh bạn muốn nói thằng nghèo đói sẽ đánh thí mạng cùi để cướp đoạt những tài sản của người giầu có. Thế mà 7 năm sau, năm 1975, lời nói của anh ấy đã thành sự thật, thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi và đã cướp được tài sản của miền Nam giầu có.

Ngược dòng thời gian ba mươi bốn năm trước đây, sau khi chiếm được miền Nam, cán bộ cộng sản rất cởi mở, tươi cười với đồng bào miền Nam, khiến người ta tin tưởng rằng hòa bình thống nhất rồi, hai miền cùng xóa bỏ hận thù và cùng nhau xây dựng đất nước, hàn gắn những vết thương do chiến tranh để lại. Thế nhưng, kẻ chiến thắng không bao giờ bỏ được bản chất gian trá có từ hồi mới cướp chính quyền mùa thu 1945. Vừa xua quân chiếm xong Sài Gòn hoa lệ, đạo quân chiến thắng vội vã chở hết vàng bạc, quí kim của ngân hàng, tháo gỡ các máy móc trong các cơ xưởng, bệnh viện, vét hết các kho dụng cụ, hàng hóa, máy móc hiện đại… đem về Bắc, sự kiện này khỏi cần phải dẫn chứng vì thực tế đã chứng minh và ai cũng đều biết cả. Số vàng bạc, quí kim vơ vét được vào túi các quan cán bộ gộc hết. Họ vơ vét nhanh, gọn y như đàn cào cào, châu chấu phá hoại mùa màng, sau cơn trấn lột tập thể vĩ đại ấy miền Nam chỉ còn là một mảnh đất nghèo xơ xác.

Một hai năm sau ngày 30-4-75, cộng sản đánh tư sản hai lần, đổi tiền ba lần, chính quyền đã vét gần sạch gần hết túi tiền người dân; kế đó, họ phát động chiến dịch đẩy dân chúng đi kinh tế mới để chiếm nhà dân một cách hợp pháp. Chỉ sau ngày 30-4-75 một hai tháng, họ lùa các viên chức, sĩ quan chế độ cũ vào các trại cải tạo lâu dài, rồi đẩy miền Nam tới chỗ nghèo nàn, cùng cực để không thể trỗi dậy chống lại chế độ độc tài. Người Sài Gòn mỗi ngày một nghèo, nhiều người phải bán nhà với giá rẻ mạt cho kẻ chiến thắng để lấy tiền đong gạo sinh sống.

Kế hoạch chiếm nhà dân đã được kẻ chiến thắng hoạch định một cách tinh vi, khoa học, đánh tư sản hai lần để chiếm nhà của bọn tư sản bóc lột cho cán bộ ở, ép buộc mọi tầng lớp nhân dân đi kinh tế mới để dãn dân ra khỏi thành thị ngõ hầu có chỗ đưa dân từ miền Bắc vào. Những người đi vượt biên dù thoát hay không đều bị lấy nhà, những nhà lớn, nhà mặt đường của dân cải tạo liên hệ chế độ cũ hầu hết bị tịch thu, họ lấy tất cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức, cho tới nay năm 2008 một người bạn mới ở Sài Gòn sang Hoa Kỳ đoàn tụ cho biết chính quyền không cho phép anh bán nhà mà phải để lại cho nhà nước, sau chạy chọt mãi với cán bộ địa phương, mới bán được nhưng phải chia tam, chia tứ, anh chỉ được hưởng 1/5 trị giá căn nhà… … Thế rồi, dần dần, kẻ chiến thắng, tầng lớp thống trị vơ vét, bóc lột người dân, tích lũy tiền bạc, mua nhà cửa, bất động sản của những người cũ nay đã khánh tận phải bán của cải đi để lấy cơm ăn, áo mặc, thành phần này thuộc loại "Tư bản mại sản". Người ta chê kẻ chiến thắng quá tham lam, họ đã được cả một đất nước to lớn, mà vẫn chưa vừa lòng tham vô đáy, còn đi chiếm từng căn nhà một.

Cho tới nay, bộ mặt đổi đời của miền Nam càng lộ rõ hơn bao giờ hết bộ, kẻ thắng trận ngày càng giầu có, họ vơ vét, bóc lột, tập trung tài sản của đất nước trong tay, bà con của họ cũng được chia chác những chức vụ béo bở, cơ sở làm ăn lớn, tha hồ mà đớp hít… Trong khi ấy, người dân miền Nam, những kẻ bại trận, ngày càng khốn khổ, trừ những người có thân nhân ở nước ngoài trợ cấp, còn đa số phải làm lụng, đầu tắt, mặt tối vì miếng cơm manh áo. Người miền Bắc nay đã trở thành giai cấp thống trị người miền Nam, họ tước đoạt tài sản, nhà cửa của người miền Nam, đuổi người miền Nam đi các vùng kinh tế xa xôi khỉ ho, cò gáy. Những kẻ bị áp bức, bóc lột này, dẫu căm phẫn, cũng đành ngậm đắng, nuốt cay vì họ phải chịu khuất phục trước lưỡi lê và họng súng của bọn độc tài thống trị. Theo như lời kể của những người đã về thăm quê hương đã nói ở trên, chúng ta có thể mường tượng ra cái hận thù Nam Bắc hiện nay nó sâu đậm như thế nào rồi..

Năm ngoái, nhân ngày Quốc Hận, một viên chức chính quyền cũ nhìn những hình ảnh biểu tình, chống đối rồi thở dài bảo:

-Anh nghĩ xem, cái hận thù Nam Bắc biết bao giờ mới hết… Theo tôi nghĩ, cái hận thù Nam Bắc nay không phải là chỉ mối hận của lớp người cũ đã bị tù đầy cải tạo, mà nó thể hiện ở một bình diện rộng lớn bao quát hơn của cả một đất nước, của cả một khối quần chúng đông đảo, của những kẻ bị trị … đó là mối hận thù giữa kẻ bị trị và những bọn cầm quyền cai trị, giữa những kẻ bại trận và bọn thắng trận..

Người ta thường nói cuộc chiến tranh Việt nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai luồng tư tưởng đối nghịch nhau của hai khối Cộng Sản và Tư bản. Những người khuynh tả cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam 1960-1975 là cuộc chiến chống Đế Quốc xâm lăng cũng như cuộc chiến tranh giành độc lập chống Pháp 1945-1954. Cũng có người cho rằng đó là cuộc chiến tranh ủy nhiệm, nghĩa là chính quyền hai Miền đã được các siêu cường uỷ nhiệm thực hiện.. Nhưng nay thì sự thể đã quá rõ ràng, nó chỉ là một cuộc "chiến tranh ăn cướp" giữa một nước nghèo đói lạc hậu và một đất nước giầu có sung túc với một vựa lúa phì nhiêu. Thằng nghèo đói đã ra sức đánh thí mạng cùi để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu, rồi tha hồ mà vơ vét, bóc lột… Thằng nghèo đói chỉ biết dùng lưỡi lê và họng súng để theo đuổi cuộc chiến tranh ăn cướp lâu dài. Nhiều người ngoài Bắc vào Nam nói: "Các anh không thể thắng được chúng tôi, những thằng nghèo đói, thằng nghèo đói không sợ chết." Sau di cư 1954, Hà Nội sống chết cũng phải chiếm cho được vựa lúa miền nam, họ đã thèm thuồng cái vựa lúa này từ lâu..

Nay, tại hải ngoại, nhiều người chủ trương hòa giải với Cộng Sản Việt Nam, họ lý luận rằng cuộc chiến tranh ba mươi năm đã tàn phá đất nước nhiều rồi, chúng ta hãy bắt tay nhau cùng xây dựng lại những vết thương do chiến tranh để lại, cùng nhau xóa bỏ hận thù. Luận điệu ấy thoáng nghe thật chan chứa tình thương yêu đồng loại; nhưng, thực ra, họ đã đặt sai đối tượng hòa hợp, hòa giải vì có phải rằng khối người lưu vong hải ngoại hận thù Cộng Sản đâu? Thực ra, như chúng tôi đã trình bầy ở trên, hận thù sâu sắc hiện nằm ngay trong lòng quần chúng miền Nam nước Việt, hận thù Nam Bắc hiện nay đang nằm trong lòng dân tộc, nó đã ăn sâu vào tận xương tủy kẻ bị trị nghèo nàn đói khổ..

Nay, cộng sản Việt Nam vẫn cho thực hiện những phim tuyên truyền kết án chế độ địa chủ ác ôn như trong phim Áo Lụa Hà Đông, nhưng trớ trêu và trơ trẽn thay chế độ của họ tự nhận là "Đảng của giai cấp công nhân" lại là một chế độ áp bức, bóc lột gấp trăm gấp ngàn lần thời kỳ địa chủ, cường hào, ác bá thập niên 40 trở về trước. Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay chính là một tập đoàn địa chủ giầu có ác ôn, hà hiếp, bóc lột dân nghèo tàn nhẫn nhất chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà từ trước đến nay.

Một người mới về Việt Nam sang Mỹ cho biết chênh lệch giầu nghèo thì không thể tưởng tượng nổi, bọn nhà giầu không ai hơn là cán bộ cao cấp ăn chơi hưởng thụ tại những nhà hàng, khách sạn sang trọng hằng nghìn, hằng mấy nghìn đô la một đêm trong khi có nhiều bà mẹ tay trái thì bồng con, tay phải bán vé số, chạy ăn từng bữa. Nay, nhiều người chủ trương hòa giải với người cộng sản Việt Nam bằng một lối lý luận đạo đức giả "xoá bỏ hận thù, xây dựng đất nước", nhưng họ không biết rằng người cộng sản có chịu xoá bỏ hận thù hay đào sâu thêm hận thù? Người cộng sản xây dựng đất nước hay xây dựng cho chế độ của họ thêm vững mạnh bằng lưỡi lê và họng súng?

Nhiều người thuộc lớp trẻ cho rằng lớp người cũ, sĩ quan, viên chức chính phủ, cải tạo HO… đã chịu nhiều ngược đãi của cộng sản nên cho tới nay họ vẫn giữ lập trường hận thù cộng sản. Ngược lại, giới trẻ đã không từng trải qua những cay đắng gian khổ của chiến tranh như tù đầy, loạn lạc vì họ còn nhỏ hoặc thậm chí chưa ra đời nên họ không có cái nhìn hằn học với người cộng sản như thế hệ cha ông của họ. Họ chủ trương hoà giải với cộng sản để cùng bắt tay nhau xây dựng đất nước vì nay cộng sản vẫn lớn tiếng kêu gọi người Việt hải ngoại hãy quên dĩ vãng, cùng nhau xoá bỏ hận thù..

Người cộng sản có thực sự xoá bỏ hận thù hay không? Họ xóa bỏ hận thù hay đào sâu thêm cái hố hận thù đã vốn dĩ sâu thăm thẳm từ bao năm qua? Chúng ta hoà hợp, hoà giải với cộng sản, đem tài nguyên tài năng về Việt Nam xây dựng đất nước hay là để củng cố thêm quyền lực và tài sản cho bọn thống trị, để họ vơ vét thêm tài sản nhân dân cho đầy túi tham và đè đầu, cưỡi cổ nhân dân miền Nam thêm nhiều thế kỷ nữa? Trước mắt, chúng ta thấy cộng sản Việt Nam vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một. Địa vị của Đảng vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.

Nay, cộng sản Quốc tế đã sụp đổ tan tành, nhưng cộng sản Việt Nam và Tàu vẫn còn bám víu vào quyền lợi riêng tư của Đảng một cách trơ trẽn và ngoan cố, họ không biết rằng con người không thể nào quay ngược bánh xe lịch sử, không thể nào vặn ngược chiều kim đồng hồ. Để quay ngược bánh xe lịch sử, họ vẫn ngoan cố bảo vệ Đảng, bảo vệ tập đoàn thống trị bằng bạo lực.

Sáu mươi năm trước đây, thánh Ghandi nói: "Chúng ta thấy qua lịch sử, con đường của sự thật và tình thương luôn luôn thắng bạo tàn, độc ác, bất nhân… Bạo tàn chỉ thắng lợi được một thời gian rồi cũng phải thất bại sụp đổ tan tành."

Thật vậy, lịch sử loài người tự cổ, chí kim đã cho ta thấy rằng tất cả những triều đại, những chế độ tàn bạo, độc ác bất nhân cho dù có vững mạnh tới đâu, cuối cùng, cũng phải bị bánh xe lịch sử nghiền nát như tương, như cám. Nay, cộng sản Việt nam không chịu nhìn lại cái gương của quá khứ, nếu họ tiếp tục đào sâu hận thù Nam Bắc bằng lưỡi lê và họng súng, cho dù họ có thể tồn tại được trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng, cuối cùng họ sẽ tự đào hố chôn mình...

Trọng Đạt

by Lý Tưởng Người Việt
khicongKhoa hoc dầu sao cũng có giới hạn của nó. Giải thích những gì mắt thấy được, tai nghe được, sờ được, đo được. Hơn nữa thì chưa. Con vật nó thấy những gì mà mình không thấy, tai nó nghe cũng hơn mình, mũi nó cũng hơn mình Phản ứng nó cũng nhanh hơn mình. Mình chỉ có cái trí là hơn nó. Con vật bị bịnh, tự nó chữa nó trước. (Lời giới thiệu của ai đó, chứ không phải của tác giả.)

Khoảng 10 năm trước đây, một bài báo trên Nhật Báo Việt Báo tại California đã làm nhiều người vui mừng. Cụ ông gần 80 tuổi đã mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối, và bệnh viện đã cho về nhà vì các tế bào ung thư đã lan khắp cơ thể. Bác sĩ điều trị đã báo cho gia đình hay là sự sống của cụ không kéo dài quá 6 tháng. Đang trong lúc cụ rất buồn, và tuyệt vọng, thì có một người quen mách cho cụ đến tập khí công và Thiền tại một địa điểm gần nhà. Vì không còn hy vọng vào thuốc men, và cũng vì chẳng có chọn lựa nào khác, cụ đã đi tập tại lớp vài lần, rồi áp dụng các phương pháp Thở Khí Công đó tại nhà vào mỗi buổi sáng. Sau vài tuần tập liên tục, cụ thấy tinh thần phấn chấn hơn trước. Do đó, cụ đã dồn hết ý chí vào việc tập Thở, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 1 tiếng đồng hồ. Kết quả thật lạ lùng: sức khỏe cụ đã trở lại hồi nào không rõ, và không thấy căn bệnh nguy hiểm kia phát triển. Một năm sau, cụ trở lại khám bệnh và điều bất ngờ đã xẩy ra: Bác Sĩ điều trị cho biết các tế bào ung thư đã bị co cụm, và chỉ qua vài lần xạ trị nữa, là căn bệnh đã hoàn toàn biến mất. Khi cụ viết bài này đăng báo, thì cụ đã sống khỏe được hơn 5 năm, sau ngày mà Bác Sĩ thông báo là cụ không thọ được quá 6 tháng.

Tại một lớp huấn luyện Dưỡng Sinh ở khu Mobile Home gần Bolsa, thành phố Westminster, trong các cuộc họp mặt Tân Niên, quan khách đều thấy một phụ nữ cao niên trông thật nhanh nhẹn, đến tiếp đón. Trong chương trình văn nghệ và trò chuyện, với giọng nói trong trẻo, bà đã kể lại chuyện đời mình. Cũng như cụ ông kể trên, bà đã bị ung thư giai đoạn cuối và cũng được thông báo là bà sẽ không sống trên 6 tháng. Nhưng như người sắp bị chìm tầu cố tìm quanh một miếng ván để cứu mạng, bà đã dò hỏi khắp nơi và khi biết có lớp Dưỡng Sinh do một võ sư trẻ huấn luyện tại Bolsa, bà đã nhờ con cháu lái xe đưa bà từ Los Angeles xuống và ghi tên học cuối tuần rồi về nhà cố tập lại những thế mà "Thầy" đã dậy. Chỉ trong một thời gian vài tháng, bà đã thấy sức khỏe hồi phục như trước khi mắc bệnh. Do đó, bà đã di chuyển xuống định cư gần lớp học để có cơ hội tập luyện nhiều hơn. Rồi thời gian qua nhanh, đã mấy năm rồi, bà vẫn trẻ trung và khỏe mạnh, Rất bất ngờ, bà đã lột chiếc mũ vải đội trên đầu và khoe mái tóc bà nửa phần trắng nửa phần đen. Bà cho biết khi bà còn mắc bệnh ung thư, tóc bà đã bạc trắng toàn bộ, nhưng sau vài năm chăm chỉ tập luyện, tóc bà đã dần dần đổi màu đen trở lại.

Một người bạn của ông anh cả người viết bài này, bị ung thư gan. Trong thời gian điều trị bằng Chemo, anh rất đau đớn, không đi đứng được. Anh cho biết vì đau quá, nên anh đã từ chối không cho làm Chemo nữa vì mỗi lần làm Chemo, anh có cảm giác như có người dùng súng bắn thẳng vào đầu, vào tim.. chịu không nổi. Người viết đã chỉ anh cách tập Thở theo Thiền, khi nằm, cũng như khi đi và ngồi. Anh đã chịu khó tập theo vài lần. Sau vài tuần lễ, gặp lại, anh đã cười rất vui và cho hay là vì tập thở đều đặn, anh không còn cảm giác đau đớn như trước nữa, và đã chấp nhận cho tiếp tục điều trị bằng Chemo. Khi vừa chớm đau, anh lập tức nhắm mắt và thở Thiền, thì mọi chuyện qua nhanh, thanh thản. Sau đó môt thời gian, anh đã trở lại phòng tập Spa, và tập luyện bình thường như không có chuyện gì xẩy ra.

Đó là những chuyện khó tin, nhưng có thật. Người ta không tin vì chưa tìm ra các phương pháp khoa học để chứng minh sự liên hệ giữa việc khỏi căn bệnh giết người này và sự hít thở. Chúng ta, ai cũng biết rằng, cơ thể con người được cấu tạo bằng các tế bào, mà tế bào sống được là nhờ khí Oxy (O2).Theo một vị Tiến Sĩ về dinh dưỡng, một khi cơ thể thiếu Oxy, thì các tế bào hoạt động giới hạn cho nên khi vi khuẩn hay vi trùng xâm nhập vào, các tế bào không đủ sức kháng cự và từ đó, con người mắc bệnh.

Nếu có thể tiếp trợ thêm oxy vào cho tế bào, bằng cách hít vào và ép hơi để cho oxygien được giữ lại trong cơ thể, thì cơ thể lại được tăng cường khả năng kháng cự và đẩy vi khuẩn hay vi trùng ra ngoài. Đó cũng là lý do tại sao với vài căn bệnh, bệnh nhân phải mang máy trợ khí oxy suốt ngày. Nếu bệnh nhân không thở bằng máy trợ khí khi ngủ thì có thể sẽ không tỉnh lại vào sáng hôm sau nữa.

Vì thế, với kinh nghiệm nhiều năm hướng dẫn Khí công, Tài Chi, và Thiền, người viết xin gộp lại các thế tập Thiền, Khí Công thành một phương pháp gọn và dễ hiểu, dễ tập cho những ai không có cơ hội đến lớp. Có 4 loại Thở: Thở đứng, thở đi, thở ngồi, và thở nằm.

1) Thở đứng: Có 4 thế:

- Thế thượng: Đứng thoải mái, hai chân thẳng, hít vào, hai tay từ từ đưa ra hai bên, vòng lên tới đỉnh đầu thì chắp hai bàn tay lại, nín hơi, đếm 1,2,3, rồi thở ra, từ từ hạ tay xuống. Làm tối thiểu 20 lần.

- Thế xoay lưng: Đứng thoải mái, hai tay buông thỏng, hít vào, từ từ "quăng" tay sang bên trái đến hết cỡ thì thở ra, "quăng" hai tay về bên phải, rồi trở lại bên trái, hít vào. Khi "quăng" sang bên nào thì "nhấc" ngón chân bên đó lên để cho đà "quăng" được dài thêm…("Quăng" có nghĩa là để tay văng tự do theo sự xoay của lưng, không "đưa" tay cứng ngắc như que củi sang bên. Thế này không có nén hơi, để cơ thể xoay liên tục, nhẹ nhàng, xoay bắp thịt lưng tối đa, hết bên này thì chuyển sang bên kia, mỗi lần "quăng" thì thở ra hay hít vào). Làm tối thiểu 20 lần.

- Thế nghiêng: Để hai tay lên cao "hết cỡ" trên đầu, hai bàn tay chạm nhau, nhưng lòng bàn tay lại ngửa lên trời (hướng về trần nhà). Từ từ nghiêng về bên trái, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, hít vào, khi không còn nghiêng được nữa, thì thở ra và từ từ trở lại bên phải. Tiếp tục 20 lần. (Hai tay phải thẳng hết cỡ, không được rùn lại, để cho bắp thịt lưng căng ra.)

- "Văng" hai bàn tay: Hai tay để ngang trước mặt, giữ yên cổ tay, để hai bàn tay "văng" cùng một nhịp, ra trước, ra sau và hai bên, trong khi hít vào và thở ra thật chậm. Thế này kích thích máu lưu thông ở cổ tay và cánh tay. Đếm theo nhịp thở, tối thiểu 20 lần.

2) Thở đi: Đứng thẳng, hai tay buông thõng. Hít vào, từ từ nhấc chân trái lên cao rồi đặt nhẹ chân xuống, nhưng không đặt cả bàn chân cùng lúc, mà chỉ đặt ngón chân xuống trước rồi mới đặt gót chân xuống sau, và đặt bàn chân chéo, hướng về phía trái. Thở ra và giữ nguyên bộ dạng. Khi thở ra hết rồi, thì từ từ nhấc chân phải lên, đặt xuống bên phải, cũng đặt ngón trước, gót sau, và hướng chéo về phía phải. Tiếp tục hít vào và nhấc chân trái lên.. Đi vòng hết chung quanh nhà. Thế này, thật ra cũng là một biến thế của phương pháp Hành Thiền.

3) Thở ngồi: Phương pháp này cũng là Tọa Thiền, rất đơn giản và dễ dàng. Ngồi đâu cũng được, trên ghế, trên giường, ngồi dưới đất, chỉ với điều kiện lưng phải thẳng góc với mông, không cong người về phía trước, vì sẽ gây đau lưng. Nhắm mắt, (vẫn nhìn thẳng về phía trước),tập trung tư tưởng, hít vào tới đan điền thì nén hơi, đếm 1,2,3 rồi thở ra. Cố làm chậm chừng nào hay chừng ấy. Tối thiểu 50 lần.

4) Thở nằm: Nằm thẳng, hai tay xuôi theo thân mình, gối đầu cao vừa phải. Nhắm mắt, tập trung tư tưởng, hít vào, nén hơi, và thở ra như thế thở ngồi. Thường thì người thực hiện chỉ làm được chừng 20 lần thì đã ngủ say rồi.

Thật ra, cho đến ngày nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng minh rằng Hít Thở phối hợp với chuyển động nhẹ nhàng mà lại chữa được bệnh, nhất là bệnh nặng. Nhưng với kinh nghiệm của hàng tỷ người trên khắp thế giới đang tập Tài Chi, Thái Cực Quyền, Khí Công, Yoga mỗi buổi sáng, chắc chắn phương pháp Hít Thở này có công dụng lạ lùng. Trong một số Health Magazine của Mỹ, cũng có nhiều bài viết về các tập thở này. (Người Mỹ tập Tài Chi lại mặc đồng phục rất đẹp). Riêng với người viết, qua bao lần đau nặng tưởng không qua khỏi, đã nhờ Hít Thở mà khỏe mạnh đến bây giờ, thiết tưởng là việc phổ biến cách Hít Thở này đến với mọi người là việc cần làm. Mong được chia xẻ và hy vọng giúp được những ai đang trong tình trạng gần như tuyệt vọng. "Còn nước, còn tát". Biết đâu, chỉ với phương pháp đơn giản "sử dụng sản vật của thiên nhiên để điều trị con người" này lại cứu được nhiều sự sống đang muốn tắt.

Chu Tất Tiến, M.S.P (PvP giới thiệu.)
Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013 by Lý Tưởng Người Việt
TuongLeVanHung2
1. QUÂN ĐOÀN III & VÙNG 3 CHIẾN THUẬ
T VỚITƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ VÀ TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH


Trung tướng Nguyễn văn Minh nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến Thuật (QĐIII & V3CT) sau khi vị tướng lãnh lỗi lạc nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) Trung tướng Đỗ Cao Trí, tử nạn trực thăng trên không phận tỉnh lỵ Tây Ninh vào ngày 23 tháng 2, năm 1971.

Trước đó ở cả bốn Vùng Chiến Thuật, QLVNCH đã mở những cuộc hành quân sâu vào căn cứ địa của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào và truy diệt chúng xa hơn vào lãnh thổ Miên và Lào. (Về lý do vì sao QLVNCH tổ chức các cuộc hành quân vượt biên sang Cao Miên và Lào, sẽ trình bày trong một dịp khác, hoặc xin mời đọc "The Tragedy of The Vietnam War" của tác giả, ở tiểu mục "A Controversal Escalation of the War in Indochina", do McFarland xuất bản tháng 9, 2008, từ trang 135 đến 141).

Lực lượng hành quân QĐ III & V3CT của Tướng Đỗ Cao Trí đạt thành quả lớn lao nhất. Từ tháng 4, 1970, đã đánh bạt Sư đoàn Công trường 7 CSBV (SĐ-7/CSBV) và Sư đoàn Công Trường 9 Cộng Sản của TWC/MN (SĐ-9/CS) ra khỏi các căn cứ địa quan trọng Lưỡi Câu, ở biên giới tây bắc Bình Long và Mỏ Vẹt ở biên giới tây nam Tây Ninh, đồng thời phá tan các căn cứ hậu cần lớn, nhỏ, của Trung Ương Cục Miền Nam (TWC/MN) cơ quan chính trị và quân sự đầu não của CSBV ở Nam Việt Nam; hạ hơn 11,000 quân CSBV, bắt hơn 2,200  tù binh và thu hoặc phá hủy hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược, trang bị và hậu cần của chúng. Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản của TWC/MN (SĐ-5/CS) lúc đó đã rút sang Cao Miên hoạt động bên ngoài biên giới Kiến Phong và đang là mục tiêu của QĐIV & V4CT.

Ở  mặt trận phía bắc, dọc Liên Quốc lộ 7, các chiến đoàn QĐIII & V3CT vượt qua các đồn điền cao-su Mimot, Krek và Chup, đến tận Tonle-Bet đông ngạn Sông Mékong ngang thành phố Kampong-Cham -nơi trú đóng Bộ Tham Mưu Quân Khu I của Tướng Fan Muong thuộc Quân lực Quốc gia Cao Miên (Forces Armées Nationales Khmères -FANK).  Ở mặt trận phía nam, trên Liên Quốc lộ 1, các chiến đoàn khác của Tướng Trí cũng tiến đến bên ngoài thành phố Sway-Riêng yểm trợ cho các đơn vị của Đại tá Dap Duon, Tỉnh trưởng của tỉnh phía đông Cao Miên này, giáp với tỉnh Tây Ninh của Việt Nam.

Suốt trong gần một năm hiện diện trên lãnh thổ Miên, QLVNCH đã liên lạc với chính quyền quân sự Cao Miên, đưa khoảng trên dưới vài chục nghìn đồng bào Việt Nam ở đó trở về nước. Chính Tướng Đỗ Cao Trí đã  làm việc này. Nỗi bận tâm của Trung tướng trong các cuộc Hành quân Toàn Thắng trên lãnh thổ Miên không chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng CSBV và các căn cứ hậu cần quan trọng của chúng ở biên giới Miên, hay chỉ để yểm trợ cho lực lượng quân đội non yếu của Tướng Lon Nol (Ông này là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miên, vừa làm cuộc đảo chính lật đổ Norodom Sihanouk trong tháng 3, 1970, khi Sihanouk công du nước ngoài) nhưng còn để giải thoát hàng chục nghìn Việt kiều bị chính quyền địa phương của chính phủ Lon Nol nghi ngờ là Việt Cộng, bắt giam giữ. Trung tuần tháng 4, 1970, tôi được Trung tướng Trí cử sang làm Sĩ quan Liên lạc ở Tỉnh Sway-Riêng thay thế Đại tá Lê Đạt Công lúc đó là Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT. Tôi nhận rõ chỉ thị và hiểu rõ mối quan tâm của Trung tướng Trí về vấn đề Việt kiều ở Miên. Vì vậy, khi biết nhu cầu cần được yểm trợ của Đại tá Đap Duon, Tỉnh trưởng Sway-Riêng, và sau khi thoả mãn được vài điều khá quan trọng, việc đầu tiên của tôi là yêu cầu Đại tá Đap Duon đưa đến thăm viếng số đồng bào chừng hai nghìn người bị chính quyền Miên tập trung giam giữ ở Trường Tiểu học tỉnh lỵ. Trước cổng Trường này, tôi hứa với đại diện Việt kiều nạn nhân ở đó là sẽ trình nguyện vọng muốn về nước của đồng bào lên Tướng Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT. Tôi đã làm như đã hứa.

Trong tháng 5, 1970, khi được Tướng Trí uỷ thác sang Kompong-Cham làm Sĩ quan Liên lạc ở Bộ Tư lệnh Quân khu I Cao Miên của Tướng Fan Muong, với một toán trên mười sĩ quan, hạ sĩ quan Phòng 2, Phòng 3, và Truyền tin của QĐIII & V3CT. Ở Komgpong-Cham, tôi cũng yều cầu Trung tá Ly Tai Sun, Tư lệnh phó của Fan Muong, nhất định phải đưa tôi đi xem nơi đồng bào Việt Nam bị họ bắt giam giữ. Hơn vài nghìn Việt kiều,  kể cả đàn bà và trẻ con, chen chúc dưới các đường giao thông hào khá sâu và rộng –mà người Pháp gọi là tranchées– trong khuôn viên chiếc sân rộng lớn của Bộ Tư lệnh Quân Khu trong thành phố. Việc nầy chỉ diễn ra vào buổi sáng sau khi tôi đã yêu cầu Tướng Trí cho Không Quân Việt Nam (KQVN), đánh giải tỏa Bộ Tư lệnh Quân Khu I, bị Tiểu Đoàn J-16 Đặc công và các đơn vị chính qui của CSVN tấn công và bao vây từ đêm trước. Khi chỉ vào nhóm Việt kiều bị giam giữ dưới các giao thông hào đó, Ly Tai Sun nói với tôi bằng tiếng Việt: -"Nếu hôm nay Ông không gọi được KQVN đánh giải cứu chúng tôi, thì số người nầy sẽ bị bắn hết." Đó là nguyên văn câu nói của tên Trung tá nầy. Từ ngày toán Liên lạc của chúng tôi đến Kompong-Cham, tôi tiếp xúc với Thiếu tá John Fernandez Tham Mưu trưởng, Ly Tai Sun Tư lệnh phó và Tướng Tư lệnh Fan Muong bằng tiếng Pháp, vì tôi không biết tiếng Miên, tôi chưa hề nghe các Sĩ quan Miên này nói một câu tiếng Việt nào. Đột nhiên nghe Ly Tai Sun bật lên câu nói ghê tởm đó, tôi nói với hắn, "Thì ra Ông là người Việt Nam, họ Lý. Ông nói vậy có nghĩa là các Ông sẽ giết hết số Việt kiều nầy và cả toán Liên lạc của chúng tôi, đúng không? Hắn cười. Tôi nói tiếp: -"Chắc là Ông chưa lường được hậu quả lớn lao sau nầy." Lý Tài Sun, hay Lý Đại Sơn –tên thật của Sun– không nói gì thêm. Tức tốc, tôi vào gặp Tướng Fan Muong nói việc Ly Tai Sun và tôi gửi mật điện trình mọi việc với Tướng Trí. Ngay buổi trưa đó, Trung tướng cho trực thăng, kèm theo quân Nhảy Dù, đón toán Liên lạc chúng tôi về Biên Hòa. Có lẽ sau đó Tướng Fan Muong điện xin lỗi Trung tướng Trí. Dĩ nhiên vấn đề chính phải là chuyện giải quyết số phận của hàng chục ngàn Việt kiều bị chính quyền Miên giam giữ từ mấy tháng trước đó khi quân CSBV phối hợp với các đơn vị Cộng sản Miên tấn công các thành phố Miên và tạo vòng đai bao vây Thủ đô Phnom Penh của Chính quyền Lon Nol. Mấy ngày sau, Thiếu tá Nguyễn văn Lý của Phòng 2/BTL/ QĐIII & V3CT và một toán Liên lạc khác được đưa trở lại Kompong-Cham. Không lâu sau đó Đại tá Trần văn Tư thay thế Thiếu tá Lý.

Trong tháng 5 đó, vấn đề nội bộ ở cấp cao giữa Trung tướng Đỗ Cao Trí và Tổng thống Nguyễn văn Thiệu hay Chính phủ VNCH, hay vấn đề ngoại giao giữa Viêt Nam và Cao Miên diễn ra thế nào tôi không ̣được biết, nhưng các cuộc hành quân thủy, bộ, của QĐIII và QĐIV đã diễn ra, đón đưa nhiều chục nghìn Việt kiều ở Miên về nước trong các tháng 5, 6 và 7, 1970. Lúc đó tôi tiếp tục phục vụ ở Phòng 2 QĐIII & V3CT, dưới quyền Đại tá Lê Đạt Công, khi ở Biên hòa, khi ở Hiếu Thiện, rồi Tây ninh, luân phiên thay thế ông về tình báo chiển trường cho đến ngày Trung Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn.

Từ ngày Trung tướng Nguyễn văn Minh về thay thế nắm quyền Tư lệnh, nhất là sau tang lễ trọng thể của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí, tình hình ngoại biên và trong nội địa Quân đoàn III & V3CT có nhiều thay đổi lớn vì hai lý do:

Thứ nhất, CSBV tăng cường đáng kể lực lượng của họ ở các  mặt trận Lào và Miên với những cuộc phản công dữ dội ở Tchépone và suốt dọc Đường 9 đến biên giới Khe Sanh, cũng như các cuộc phản công ở Đường 7, từ các đồn điền cao su Chup, Mimot đến biên giới Việt-Miên, vùng Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt. Chiến đoàn 8 của Sư đoàn 5 Bộ binh (SĐ5BB) cũng tổn thất nặng và rút khỏi Thị trấn Snoul của Miên trong cuối tháng 5, 1971. Địa điểm duy nhất của Quân đoàn III còn duy trì trên lãnh thổ Miên là căn cứ hỗn hợp Việt-Mỹ ở Thị trấn Krek, giao điểm giữa đường 7 và đường 22 đổ vào nội địa tỉnh Tây Ninh và cách biên giới chừng 12 km.

Thứ  hai, Trung tướng Nguyễn văn Minh tánh người ôn nhu, chuộng phòng thủ hơn tấn công. Ông không phải là một hổ tướng như Đại tướng Trí, nhưng là một túc tướng (tôi sẽ trình bày ở phần sau). Hơn nữa, cục diện chiến trường đã thay đổi sau cuộc Hành quân Lam sơn 719 ở Hạ Lào. Tướng Minh lâm vào tình trạng bất cập, khó khăn trong vấn đề chỉ huy. Ông xuất thân Khóa IV Trường Võ bị Liên quân Dalat, trong khi hai vị tư lệnh sư đoàn dưới quyền đều thuộc khóa đàn anh. Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu, Tư lệnh SĐ5BB và Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Tư lệnh SĐ18BB, cùng xuất thân Khóa III. Sau trận rút lui khỏi Snoul của Chiến đoàn 8, SĐ5BB, Tướng Hiếu được trao phó trọng trách khác. Đại tá Lê văn Hưng, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Cần Thơ, được Tướng Minh đề nghị thay thế Tướng Hiếu làm Tư lệnh SĐ5BB. Ít lâu sau, Tướng Lâm Quang Thơ cũng được Đại tá Lê Minh Đảo thay thế.

 Tuần lễ đầu tháng 6, 1971, tôi được lệnh thuyết trình tình hình các đại đơn vị địch trong lãnh thổ và ngoại biên -mà QĐIII & V3CT phải đương đầu- cho Đại tá Lê văn Hưng, tân Tư lệnh SĐ5BB. Nội dung bài thuyết trình không khác gì nhiều so với những gì tôi viết trên đây. Dĩ nhiên là không có phần nói về các vị Tướng Tư lệnh Trí, Minh, Hiếu và Thơ. Tôi nóí về tình hình của các đại đơn vị CSBV và TWC/MN đang hoạt động ở biên giới Việt Miên sau khi QLVNCH rút ra gần hết khỏi lãnh thổ Miên, chỉ còn duy trì cứ điểm cuối cùng ở Krek. Tôi trình bày rõ về qui luật tác chiến, quân số, trang bị, vùng hoạt động của từng đại đơn vị CSBV & TWC/MN theo trận liệt và tin tức mới nhất mà chúng tôi có được. Sau cùng là phần ước tính về hoạt động của các đại đơn vị nầy và chủ trương của TWC/MN trong thời gian tới. Tôi cho rằng nên giải tỏa áp lực địch có khuynh hướng tập trung để dứt điểm căn cứ Krek vì lúc đó chúng tôi ghi nhận TWC/MN đang hiện diện trong vùng Snoul, và các căn cứ hậu cần của chúng đang hoạt động trở lại ở vùng biên giới Bình Long và Tây Ninh. Đây là bài thuyết trình thường lệ ở cấp Vùng Chiết Thuật (là cấp Quân Khu cũ) về "tình hình địch". Hình như Đại tá Hưng nghe rất rõ, không hỏi một câu nào. Ngược lại, khi bài thuyết trình vừa chấm dứt, Đại tá Hưng quay sang Trung tướng Minh, và nói: -"Thưa Trung tướng, Dưỡng là bạn cùng Khóa, cùng Trung đội với tôi." Sau đó, ông đứng lên và bước thẳng đến bục thuyết trình bắt tay, ôm lấy tôi. Đó là dấu hiệu thân thiện đầu tiên khi gặp lại sau hơn 15 năm kể từ khi tốt nghiệp và rời Quân trường Thủ Đức vào tháng 1, năm 1955. Ngày ra trường, chúng tôi đều mang cấp bậc Thiếu uý. Ở buổi thuyết trình nầy, tôi chỉ là một Thiếu tá, nhân viên của một Phòng 2 Quân đoàn, còn ông là Đại tá, tân Tư lệnh của một sư đoàn. Địa vị trong quân đội cách xa nhau nhiều lắm!

2. TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ TÔI

Tổng số Sinh viên Sĩ quan Khóa V, Vì Dân, trên 1,300 người, kể cả hai đại đội bộ binh gửi thụ huấn ở Liên trường Võ bị Liên Quân Dalat. Đại đa số SVSQ được gọi nhâp ngũ và đưa đến Trường SQTB Thủ Đức trong tháng 5, năm 1954. Ông Hưng và tôi được xếp vào Trung đội 8 của Thiếu uý Nguyễn Hưng Chiêu, thuộc Đại đội 2 Bộ binh, cùng ở chung phòng hỗn hợp (salle mixe) với Trung đội 7 của Trung uý Lê văn Sỹ. Ở phòng chung nầy, Trung đội 7 có 12 sinh viên và Trung đội 8 cũng có một số sinh viên như vậy. Còn phòng chính của mỗi Trung đội gồm 24 sinh viên nằm kế cận hai bên phòng mixe nầy. 

Khóa nầy, tại Thủ Đức có hai đại đội bộ binh và sáu đại đội chuyên ngành như Pháo binh, Trọng pháo, Thiết giáp, Công binh, Truyền tin, Hành Chánh Quân Nhu v.v… Đại đội I Bộ binh gồm các Trung đội 1, 2, 3 và 4;  Đại đội II Bộ binh gồm các Trung đội 5, 6, 7 và 8. Trung đội 8 của chúng tôi có 36 sinh viên, mà ngày nay tôi còn nhớ tên trên hơn ba mươi bạn. Trung đội 8, Đại đội II Bộ binh của Thiếu uý Nguyễn Hưng Chiêu có thể là Trung đội SVSQ tạo được hai kỳ tích là đã cho ra trường một Thủ khoa và một sĩ quan sau đó trở thành Tướng lãnh duy nhất cho toàn khoá, danh tiếng lẫy lừng. Vị tướng lãnh này là Lê văn Hưng, người Quận Hóc Môn, Tỉnh Gia Định. Ông là một trong 5 vị Tướng tuẫn tiết ngày 30, tháng 4 đen, năm 1975. 

SVSQ Lê văn Hưng lúc đó thỉnh thoảng đôi mắt thoáng nháy nhẹ một lần như khi đã làm tướng. Thường ngày, lúc nghỉ ngơi trong phòng, Hưng thường mặc chiếc sa-rong của người Miên, màu đỏ sọc xanh đen, ở trần không mặc áo, cổ đeo một giây chuyền vàng mang một nanh heo rừng nhỏ. Hưng rất ít nói, nhưng dễ mến vì lúc nào gặp ai cũng cười; nụ cười dễ gây thiện cảm và theo tôi nghĩ, dễ làm xiêu lòng các người đẹp. Nước da ngâm, nhưng cao lớn và đẹp trai theo lối một người hùng hơn là một thư sinh. Lúc đó anh đã lập gia đình. Khi gần hết giai đoạn I, nhất là sau khi đã được mang Alpha –biểu trưng của SVSQ– cứ mỗi hai tuần sinh viên được đi phép 24 giờ về thăm gia đình. Như vậy mỗi trung đội 36 sinh viên, thì một nửa đi phép, một nửa khác lưu trại. Tôi thuộc toán được đi phép hay lưu trại chung với anh Hưng.

Trong đời, đôi khi ta gặp những hoàn cảnh chạnh lòng. Khi bước chân vào Quân trường Thủ Đức tôi đã mang nỗi buồn riêng, tủi cho thân phận mình. Không biết nói cùng ai. Lúc đó tôi là một cậu học trò, độc thân, gia đình nghèo. Tôi nhập trường vào tháng 5, đến tháng 7, 1954, sau Hiệp định Genève, đất nước chia đôi. Thị trấn Càmau nhỏ bé thân thương của tôi biến thành nơi tập trung của các lực lượng vũ trang bộ đội và du kích Việt Minh trong nhiều tháng, trước khi họ tập kết ra miền Bắc. Cha và anh tôi là tiểu công chức phải rời Càmau lên tỉnh lỵ Bạc liêu làm việc; gia đình ăn ở tạm bợ, nghèo khó. Với số lương tháng ít oi của một SVSQ tôi phải gởi bớt về giúp thêm cho cha mẹ, đứa em gái còn đi học, và người chị quả phụ và hai đứa cháu cô nhi. Ngày thường, nhất là khi tập ở ngoài bãi, tôi lấy thêm phần ăn sáng mà các bạn cùng bàn không đến ăn, thường là bánh mì với mấy thỏi chocolate hoặc fromage đầu bò –ở Nhà Ăn Sinh viên– mang theo để ăn trong buổi giải lao, trong khi các bạn sinh viên khác bao quanh các gánh bán thức ăn hàng rong ở các bãi tập đó. Buổi chiều, khi ăn cơm xong, tôi thường mang về một ga-men (gamelle) cơm trắng để đến tối trong khi các bạn đi ăn uống ở các Câu lạc bộ Sinh viên hay ở những gánh hàng rong đủ loại thức ăn mà vợ con binh sĩ ở trại gia binh mang đến tận hành lang ngoài phòng ngủ của sinh viên, tôi lặng lẽ đem phần cơm đó và một chai xi dầu, ra ngồi ở bậc xi-măng đầu chiếc cống xây trên lạch nước gần dãy trại của Đại đội chảy ra bãi tập thể dục quân sự, ăn dưới ánh trăng, hay trong bóng tối bao quanh. Tôi đã nuốt những hạt cơm nguội lạnh đó trong nhiều đêm cùng với nỗi tủi thân của mình. Rồi một đêm nào đó, tôi không nhớ rõ, Thiếu uý Nguyễn Hưng Chiêu, Trung đội trưởng của tôi, trong buổi trực đêm của ông, bắt gặp tôi đang ngồi ăn cơm đêm trong bóng tối như vậy. Khi ông rọi đèn pile thấy rõ ga-men cơm đang ăn dang dở và chai xì-dầu, trong khi tôi đứng thẳng ở tư thế nghiêm của một sinh viên trước thượng cấp của mình. Ông không nói gì, để tôi đứng đó và đi vào dãy phòng ngủ của Đại đội. Tôi âm thầm trở về phòng với nỗi lo sợ lớn lao trong lòng. Tôi sợ mình đã vi phạm một lỗi lầm quân kỷ nào đó của Trường. Mấy ngày sau tôi chờ đợi nhận phần phạt. Nhưng không, ngược lại, tôi nhận được tờ giấy bạc 100 Đồng, một số tiền khá nhiều lúc đó, xếp giữa hai trang giấy trong tập bài học của tôi sau khi Thầy khám duyệt và hoàn trả các tập vở đó lại cho các sinh viên Trung đội. Thầy đã kín đáo cho tôi tiền như đã hiểu rõ hoàn cảnh của tôi. Đã gần sáu mươi năm rồi, tôi mang ơn Thầy Chiêu đã đào tạo tôi trở thành một sĩ quan QLVNCH và về đức độ và lòng nhân hậu của Thầy. Tôi không mong trả được ơn Thầy trong cuộc đời nầy vì tôi biết không có gì quí giá xứng với tấm lòng bao dung rộng lớn của Thầy. Ngược lại, rõ ràng người đã đền đáp ơn Thầy nhiều nhất là Tướng Lê văn Hưng vì những chiến công rực rỡ và sự tuẫn tiết cao đẹp của vị Tướng nầy, người anh hùng mà Thầy một thời đã tạo dựng nên.

Lúc đó tôi rất ít xuất trại nghỉ phép. Họa hoằn có đi phép thì cũng chỉ xuất trại vào sáng ngày Chúa nhật, đi dạo vòng vòng các khu phố lớn Saigòn, xem chớp bóng ở các rạp chiếu bóng thường trực để đợi đến chiều ra Đường Hai Bà Trưng, sau Trụ sở Quốc hội, đợi đoàn xe GMC đưa đón SVSQ của Trường rước về. Những tuần không đi phép tôi mặc quân phục chỉnh tề, cùng các bạn trong Trung đội người miền Bắc, cũng "mồ côi" như tôi sau khi Hiệp định Genève-1954 chia đôi đất nước, đi dạo ở khu chung quanh sân cờ lớn của Trường, nơi có những hàng cây tỏa bóng mát, dù ít oi, xuống thảm cỏ dưới gốc, mà các SVSQ lưu trại thường đón tiếp và vui vầy với gia đình hay người yêu đến thăm viếng trong ngày Chúa nhật.

Cảnh đầm ấm, hạnh phúc và sinh động hực hỡ màu sắc nầy cũng diễn ra trong Câu lạc bộ Sinh viên và trong các lều mát hay quán ăn chung quanh đó. Dĩ nhiên trong số những thân nhân đến thăm viếng sinh viên hàng tuần không thiếu những bóng hồng tươi đẹp, xinh xắn, là chị, là em, là bạn, là người yêu, hay vợ của sinh viên lưu trại. Một trong những người đẹp đó là vợ của anh Hưng. Nhìn từ xa xa cũng biết chị đẹp. Dáng người cao thon thả nhưng cân đối khoẻ mạnh như một thiếu nữ phương Tây. Mặt sáng, nước da trắng. Cách ăn mặc và dáng điệu tạo vẻ thuộc gia đình trung lưu, khá giả. Mỗi lần thăm anh, chị thường dẫn theo đứa con gái nhỏ chừng hơn một tuổi. Họ quây quần bên nhau rất hạnh phúc. Thế nhưng, trong đời người ta không thể ngờ được những bất cập, tan vỡ, chia ly diễn ra mà hậu quả là ưu phiền và oán hận.

Chín năm sau ngày ra trường, mỗi người đi một nơi, không biết tin tức gì của nhau, bỗng nhiên vào giữa tháng 1 năm 1964, tôi được biết tin về anh Lê văn Hưng. Sau ngày đảo chánh 1 tháng 11, 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Đại tá Nguyễn văn Phước Trưởng Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu (P2/BTTM) bị mấy ông Tướng đảo chính bắt giam giữ ở Cục An ninh Quân đội, Trung tá Hồ văn Lời, Chỉ huy trưởng Trường Quân báo Cây Mai, được đưa lên BTTM thay thế. Tôi cũng được thuyên chuyển theo ông và giữ chức vụ Trưởng ban Hành chánh của P2/BTTM.

Một hôm tôi đọc được trong xấp hồ sơ "Công văn Đến" lệnh thuyên chuyển của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng ban hành hoàn trả Trung uý Lê văn Hưng về ngành Quân Báo và đặt thuộc quyền sử dụng của P2/BTTM. Trước cuộc đảo chính Trung uý Hưng là Quận trưởng Trà Ôn ở miền Tây. Có lẽ những năm trước nữa ông Hưng có học qua một khóa Quân Báo hay giữ chức vụ nào đó cùng ngành với tôi mà tôi không biết. Sau đó ít lâu, khi hồ sơ cá nhân của Hưng gửi về P2/BTTM mới được biết là sau khi tốt nghiệp ở Thủ Đức nhờ đậu cao nên anh được chọn về Quân Khu I –lúc đó bao gồm cả lãnh địa của Vùng 3 và Vùng 4 Chiến thuật sau này- và thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy Trung đoàn 15 đóng tại Gia Định. Thiếu tá Lê Thọ Trung là Trung đoàn trưởng. Sau này, khi ông Hưng đã lên Tướng và làm Tư lệnh SĐ5BB, ông Trung, chỉ mang cấp bậc Trung tá, là Tham Mưu trưởng cho ông Hưng.

Không đầy một tuần sau khi P2/BTTM nhận được lệnh thuyên chuyển của Trung úy Hưng, cũng trong tháng giêng đó, một người đàn bà đến xin gặp Trung tá Trưởng P2/BTTM. Với tư cách là người phụ trách về hành chánh và quản trị nhân viên, tôi tiếp bà khách. Bà tự xưng là người phối ngẫu chính thức và đã ly dị của ông Hưng. Tôi hình dung được ngay đó là người vợ của SVSQ Hưng của gần mười năm trước. Tuy bà đã bớt vẻ thon thả, khá người hơn, mà vẫn còn đẹp ở độ tuổ̉i trung niên. Bà mang theo một lá đơn xin gửi lương tháng, mà bà nói là do Tòa án phán quyết khi ly dị, ̣đến thẳng địa chỉ của bà ở Gia Định. Tôi chỉ ghi nhận sự kiện, nhận đơn, mà chưa giải quyết được vì Trung uý Hưng chưa trình diện P2/BTTM.

Sau đó không lâu, tôi nhận tiếp một lệnh khác của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng thuyên chuyển Trung uý Lê văn Hưng về SĐ21BB. Như vậy đến năm đó tôi vẫn chưa gặp lại Hưng cho đến đầu tháng 6, năm 1971. Vì ông Hưng trình diện thẳng SĐ21BB mà không trình diện P2/BTTM. Cuối năm 1967, vào một buổi chiều, tôi vô tình gặp lại người vợ đã ly dị đó của ông Hưng trong Dancing Club Victoria ở Tân Định, gần Bộ Tổng Tham Mưu. Bà là vũ nữ ở đó. Tôi nhận ra bà nhưng bà không nhớ có lần đã gặp tôi ở P2/BTTM gần bốn năm trước. Lúc đó tôi mang cấp bậc Thiếu tá và được biết ông Hưng mang cấp Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 thuộc SĐ21BB và là một trong năm ngũ kiệt nổi tiếng ở miền Tây. Ít lâu sau nghe ông Hưng thăng cấp Đại tá và làm Tỉnh trưởng Cần Thơ. Từ cuối năm 1967, sau buổi khiêu vũ "matinée" ở Victoria, tôi không gặp bà vợ đã ly dị của ông Hưng lần nào nữa. Đến nay đã gần nửa thế kỷ.

Sau buổi thuyết trình đầu tháng 6, năm 1971 đó, Trung tướng Minh mời Đại tá Hưng và tôi ăn cơm trưa trong chiếc "trailer" đặt ở sân trước Tư dinh Tướng Minh ở Biên Hòa. Đáng lẽ tôi không hân hạnh được mời tham dự bữa cơm của hai ông tư lệnh này đâu, nhưng tôi nghĩ Tướng Minh mời tôi là vì Đại tá Lê văn Hưng nói tôi là bạn đồng môn. Lý do thứ hai là vì khi ra trường tôi thuyên chuyển về Tiểu đoàn 61 VN đầu năm 1955, làm Trưởng Ban Quân số (Chef Bureau Effectif), đến khoảng tháng 8 năm 1955, ông Nguyễn văn Minh, lúc đó mang cấp bậc Thiếu tá được bổ nhậm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 VN, kiêm Quận trưởng Quân Đức Hòa, thuộc tỉnh Chợ Lớn, chỉ định tôi làm Văn phòng trưởng Tiểu đoàn (Chef Bureau Secretariat), đồng thời là Chánh văn phòng Quận Đức Hòa cho ông. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến và Tổng thống Đệ nhất Cộng Hòa cuối năm 1955, Thiếu tá Minh được đề cử chức Tỉnh trưởng Sa Đéc, thăng cấp Trung tá. Tôi xin thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 1/43 Sư Đoàn 15 Khinh Chiến, đóng ở Dục Mỹ, Nha Trang.

Trong Đệ Nhị Cộng Hòa ông Minh thăng cấp nhanh chóng, Đại tá Tư lệnh SĐ21BB, rồi Chuẫn tướng, rồi Thiếu tướng,  rồi Trung tướng làm Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, rồi Tư lệnh QĐIII & V3CT. Ông chưa quên tôi đã từng giúp việc cho ông từ 15 năm trước. Còn lý do thứ ba nữa, đến khi ngồi vào bàn cơm tôi mới được biết là Đại tá Hưng xin Tướng Nguyễn văn Minh cho tôi về giúp ông làm Trưởng Phòng 2 SĐ5BB. Điều nầy làm tôi bất ngờ. Tôi xin để được suy nghĩ lại. Tướng Minh cũng chưa quyết định ngay. Sau buổi cơm Đại tá Hưng lên Lai Khê, tôi được Tướng Minh cho nghỉ phép một tuần về Saigon, nói là để ông sẽ sắp xếp lại nhân sự.

Lúc đó, Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT là Đại tá Lê Đạt Công không được Tướng Nguyễn văn Minh tín nhiệm đã cho thuyên chuyển xuống SĐ21BB. Phòng 2 tuy còn mấy sĩ quan cấp tá khác nhưng công việc do tôi quán xuyến mặc dù tôi không giữ một chức vụ nào ở đó. Tôi nghĩ Trung tá Mạch văn Trường, vừa rời chức vụ Quận trưởng Thủ Đức về QĐIII & V3CT, đệ tử thân nhất của Tướng Minh, trước đó là Trưởng Phòng 2 SĐ21BB của Tướng Minh, sẽ được chỉ định làm Trưởng Phòng 2 Quân đoàn. Nhưng không phải, khi hết phép trình diện Tướng Minh, tôi được ông cho biết Đại tá Hưng đã gởi hai công điện chính thức xin tôi về SĐ5BB. Tướng Minh nói với tôi là nên lên Lai Khê giúp ông Hưng và Trung tá Mạch văn Trường cũng đã được đưa lên đó giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8. Trung tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 SĐ18BB sẽ được chỉ định làm Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT.  Điều nầy cũng hợp lý, vì Trung tá Bình là một sĩ quan Quân báo nhiều kinh nghiệm đã từng là Trưởng Khối Tình Báo của P2/BTTM.

Tôi rất buồn khi nghe quyết định của Tướng Minh. Không phải tôi muốn thối thoát trách nhiệm làm trưởng phòng tình báo chiến trường cấp sư đoàn mà tôi cho là quan trọng. Nhưng tôi tủi thân khi phải phục vụ người bạn cùng khóa. Biết đâu việc làm của tôi không tránh khỏi những sơ suất, chết quân mất đồn, lúc đó sẽ khó cho ông mà khó cho tôi biết mấy. Thà làm việc cho vị tư lệnh nào khác, không giữ một chút tình riêng trong lòng, tôi sẽ an tâm hơn. Thưởng phạt sẽ nhận và chịu một cách vô tư, thảnh thơi hơn, nếu mình hữu công hay mình bất lực. Nhưng là một quân nhân, tôi phải chấp hành lệnh của thượng cấp. Tôi điện thoại cho Đại tá Hưng và xin cho tôi thu xếp và trình diện SĐ5BB ngày 16 tháng 6. Quá trưa ngày đó, khoảng 2 giờ, Đại tá Hưng cho trực thăng chỉ huy của ông đón tôi ở Biên Hòa lên Lai Khê. Trong văn phòng Tư lệnh, ông Hưng bắt tay và ôm vai tôi lộ vẻ vui mừng. Sau đó, tôi nhận nhiệm sở mà không có bàn giao vì người tiền nhiệm của tôi là Trung tá Nguyễn Công Ninh đã rời Sư đoàn từ tuần trước. Khi tôi đang họp với các sĩ quan Phòng 2 Bộ Tham mưu và Biệt đội Quân báo Sư đoàn, thì Chánh văn phòng Tư lệnh, Đại úy Nguyễn Đức Phương, gọi điện thoại nói là Đại tá Tư lệnh mời tôi dùng cơm tối tại tư dinh, sau buổi họp 5 giờ chiều hằng ngày ở Trung tâm Hành quân Sư đoàn.

Trên chiếc trailler được che chắn bằng nhiều bao cát xung quanh, đặt ở sân sau tư dinh Tư lệnh, song song với dãy nhà văn phòng của Phòng 2 Sư đoàn, nơi làm việc của tôi từ buổi trưa đó, cách một lớp rào lưới chống đạn B-40, lần đầu tiên tôi gặp người phối ngẫu chính thức của Đại tá Lê văn Hưng, chính do ông giới thiệu, mà sau đó không lâu tôi được biết nhũ danh của bà là Phạm Kim Hoàng. Tôi nghĩ bà là người xứng với ông Hưng. Nước da trắng, gương mặt đẹp sáng, dáng người mảnh mai thanh tú, giọng nói dịu dàng. Bà tỏ ra thân thiện với người đồng môn của chồng. Ông Hưng cũng không hỏi một câu nào về gia đình hay bản thân tôi từ ngày ra trường. Ông và tôi bàn về các vấn đề thời sự ở phạm trù lớn hơn phạm trù QĐIII & V3CT, bình đẳng, không gò bó như thường khi tôi tiếp xúc với bất cứ một thượng cấp nào của tôi trước đó. Sau buổi cơm tối ngày tôi trình diện sư đoàn, tôi nghĩ  rằng tôi có thể yên tâm làm việc với Đại tá Hưng, không còn mặc cảm. Trái lại, tôi nghĩ là phải cố gắng, bỏ tâm cơ nhiều hơn trong việc làm để thực sự giúp người bạn hiểu biết mình và cũng để chứng tỏ mình có đủ kiến thức và khả năng chuyên môn không làm phụ lòng ông.

Đó không phải là buổi duy nhất ông bà Hưng đãi cơm tôi trên chiếc trailer ở tư dinh của tư lệnh trong căn cứ Lai Khê, mà rất nhiều lần trong suốt thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB dưới quyền chỉ huy của ông Hưng. Mỗi khi ông bà tổ chức các buổi ăn gia đình có tính kỷ niệm, người bạn duy nhất được mời là tôi. Thêm nữa, mỗi lần khi mà buổi sáng tôi bị gạch tên trong các lần đề nghị thăng cấp đặc cách, hay trong danh sách đề nghị thưởng huy chương Anh dũng Bội tinh, dù ở cấp sư đoàn mà ông Hưng, với thẩm quyền tư lệnh, có thể ký ban cho. Trong ngày nào đó, nếu ông từ chối đề nghị của Trung tá Tham mưu trưởng Lê Thọ Trung, thì buổi chiều bà Hưng gọi điện thoại mời tôi ăn cơm tối với ông, bà. Trong buổi cơm, dù tôi tỏ ra bình thường bà Hưng vẫn nói như an ủi tôi "ảnh luôn như vậy đó, anh đừng buồn", trong khi ông Hưng ngồi đó, nghe và cười. Nụ cười vừa an ủi vừa như bảo với tôi rằng ông không muốn để người khác dị nghị và Anh dũng Bội tinh không thể cấp cho sĩ quan tham mưu. Người hiểu rõ các điều trên đây lúc đó là Trung tá Lê Thọ Trung, vị chỉ huy trưởng cũ của Ông Hưng. Tôi nghĩ rằng Trung tá Trung nhiều lần cũng được gia đình ông Hưng mời ăn những buổi cơm riêng như vậy, vì ông Hưng chắc không quên người đã từng là thượng cấp của ông khi vừa bước ra khỏi cổng Quân trường Thủ Đức. Dĩ nhiên người hiểu rõ nhất những mối liên lạc thân thiện giữa Tướng Hưng và tôi là bà Hưng. Những buổi cơm có tính cách gia đình nầy không chỉ diễn ra trong thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB mà còn như hằng ngày ở những tháng sau cùng của chiến cuộc Việt Nam, tại tư dinh Tướng Hưng ở Cần Thơ. 

Văn Nguyên Dưỡng

www.vietthuc.org


      

altTÁC GIẢ: VĂN NGUYÊN DƯỠNG
[AKA: VĨNH ĐỊNH NGUYỄN VĂN DƯỠNG]


Sinh tháng 1, năm 1934, Thị xã Càmau, Tỉnh Bạcliêu, Nam Việt.
Động viên Khóa 5 SQTB tháng 5, năm 1954.
Tốt nghiệp Thiếu uý ngày 1 tháng 2, năm 1955


BINH NGHIỆP:
Trung đội trưởng  & Đại đội Trưởng, TĐ 1/43, Sư Đoàn 15 Khinh Chiến, 1955-1957.
Huấn luyện viên Trường Quân Báo & CTTL/QLVNCH, 1958-1963.
Sĩ Quan Tham Mưu, Phòng II/BTTM/QLVNCH, 1964-1966.
Chỉ huy phó & Q.Chỉ huy trưởng TTQB, 1966-1968.
Trưởng Phòng 2, BTL/SĐ 22BB, 1969-1970.
Trưởng Phòng 2, BTL/SĐ5BB, 1971-1974. Tham dự Trận chiến An Lộc mùa Hè 1972.
Sĩ quan Tham mưu, Phòng II/BTTM/QLVNCH, 1974-30/4/1975.


HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ:
Tốt nghiệp -Khóa ANQĐ, Trường Quân Báo QLVNCH, Saigon, 1958. -Khóa Tình
Báo Lãnh thổ, Bộ Tư lệnh Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông, Singapore, 1961. -Khóa An ninh & Phản tình báo, 1962 và -Khóa Tình báo Chiến trường (Field Operations Intelligence),1965, Trường Tình báo Lục quân Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Okinawa. -Khóa Tình báo Cao cấp, Trường Tình báo Lục quân Hoa Kỳ, Maryland, 1968.                                                                             


TRÌNH ĐÔ HỌC VẤN:
Cao học Chính trị học về "Ngoại giao & Giao tế  Quốc tế", Hoa Kỳ.


TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ:
Sau  ngày 30, tháng 4, 1975, bị tập trung cải tạo -hay đi ở tù CSVN- cùng với hàng trăm  ngàn Sĩ quan QLVNCH, CSQG, Công chức Cao cấp, các lãnh tụ tôn giáo và các đảng phái chính trị Quốc Gia, ở các vùng Thượng du, Trung du Bắc Việt và miền Nam. Ra tù  năm 1988. Định cư ở Hoa Kỳ tháng 9, năm 1991.


-Tập thơ VÙNG ĐÊM SƯƠNG MÙ làm từ năm 1965 và được Nhà XB Mai Lĩnh xuất bản năm 1966 ở Saigòn.

-Tập thơ TRƯỜNG CA TRÊN BÃI CHIẾN và nhiều bài thơ ngắn khác làm trong 13 năm ở các Trại Tù CSVN.

-Sang Hoa Kỳ, sau khi tốt nghiệp Cao học, chuyển Luận án thành sách. Nhà XB McFarland North Carolina xuất bản tháng 9, năm 2008, tựa đề The Tragedy of the Vietnam War. Cung Trầm Tưởng viết bài góp ý và giới thiệu, được đăng nhiều lần trên báo chí Việt ngữ. Văn Nguyên Dưỡng viết cho vài tạp chí văn học ở Hoa Kỳ và Canada.