Ngày Nam Việt Nam hay ngày Việt Nam Cộng Hòa có thật đúng nhân xưng cho ngày mà hàng trăm, hàng ngàn người dân miền Nam từ nam-nữ-lão-ấu phải hốt hoảng bỏ chạy trước các cuộc xâm lăng, pháo kích bừa bãi của quân Bắc Cộng dưới chiêu bài "giải phóng", "thống nhất" ?
Ngày Nam Việt Nam hay ngày Việt Nam Cộng Hòa có thật đúng nhân xưng cho ngày gây ra những cái chết tức tưởi, uất nghẹn của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũng như những nỗi nhục nhã ê chề phải buông súng trước bọn Cộng phỉ ngang ngược ?
Ngày Nam Việt Nam hay ngày Việt Nam Cộng Hòa có thật đúng nhân xưng cho ngày mở đầu trang sử bi thương nhất của nhân loại bởi cuộc trốn chạy Cộng Sản vô tiền khoáng hậu của người dân Việt Nam ?
BBT cũng xin kèm dưới bản tin trên bản dịch Nghị Quyết 455 chỉ định ngày 30/4 năm 2013 và những năm kế tiếp, là ngày công nhận Nam Việt Nam ở Virginia, cùng bài viết của tác giả Kim Âu, nói lên quan điểm của tác giả về ngày Quốc Hận 30-4.
Các phần in đậm trong bài do BBT làm có chủ đích.
**********
30/4 NĂM NAY, VIRGINIA ĐI ĐẦU TRONG VIỆC CÔNG-NHẬN NGÀY NAM VIỆT-NAM
Có lẽ không ít người trong chúng ta còn nhớ: Tại buổi chào cờ đầu năm ở Eden Center vào mồng 1 Tết Quý Tỵ (10 tháng 2-2013), một vị khách đến từ Richmond, thủ-phủ của Tiểu-bang Virginia, đã hết lòng ca tụng lòng quả cảm và sự can trường trong chiến-tranh của Quân-lực VNCH và nhất là binh-chủng Thủy-quân lục-chiến. Phải nói, những lời phát biểu hôm đó của một bạn đồng-minh đã chiến-đấu lâu năm ở VN đã làm cho không ít các cựu-quân-nhân VN có mặt hôm đó ấm lòng. Bởi nó không phải là một lời ca tụng đãi bôi của một chính-trị-gia đi tìm lá phiếu của chúng ta. Nó đến từ một sĩ-quan TQLC đã hơn một lần vào sinh ra tử trong thời-gian ông ở VN, máy bay ông bay đã bốn lần bị trúng đạn phòng không của địch, và ngay trong một lần chạm súng ở dưới đất ông cũng bị thương và sau đó được huy-chương Purple Heart.
Chúng tôi đang nói đến Thượng-nghị-sĩ Tiểu-bang, ông Dick Black, một trong những người bạn tốt nhất của cộng-đồng chúng ta ở Richmond. Ông rất quý những huynh đệ chi binh VNCH của ông mà ông không ngớt lời ca tụng vì ông đã từng sát vai chiến-đấu với họ. Hôm đó, ông được chị Trần Mỹ Lan, một giáo-sư đại-học ở Virginia Commonwealth University, hướng-dẫn để đến với cộng-đồng chúng ta. Được biết, chị Mỹ Lan cũng còn kiêm thêm chức giám-đốc điều hành của Hiệp-hội Thương mại Á-châu ở Virginia.
Hôm đó, TNS Dick Black cũng tiết-lộ một tin vui đến cộng-đồng chúng ta. Đó là sau một thời-gian dài vận-động của cộng-đồng VN ở Richmond do ông Phan Đức Tính đốc thúc và được sự yểm-trợ đắc lực của các thành-viên khác trong Hiệp-hội Thương mại của Chị Mỹ Lan, cuối cùng nghị-quyết công-nhận một Ngày Nam Việt-nam (mà ta cũng có thể nói gọn là Ngày VNCH) trong năm đã được dự-trù đưa ra bàn thảo trong Đại-nghị-viện (General Assembly) của tiểu-bang. Và đúng như lời thông-báo của ông, ngày 21/2 Nghị-quyết của Lưỡng viện SJR455 đã được Thượng-viện thông qua và đến ngày hôm sau thì Hạ-viện Virginia cũng ủng-hộ luôn.
Ngày Quân Lực 19/6 – Ngày Chiến Sĩ Tự Do (Freedom Fighters Day)
Với quyết-định này, một lần nữa Virginia lại tỏ ra dẫn đầu trong các tiểu-bang ở Hoa-kỳ có những hành-động thật ân cần, thân thiện đối với cộng-đồng người Việt tự do. Tại vì có lẽ ta cũng nên nhớ là chính Đại-nghị-viện Virginia đã công-nhận Ngày Quân Lực VNCH 19/6 làm Freedom Fighters Day (Ngày Chiến-sĩ Tự do) từ năm 2002 với SJR139. Rồi đến ngày 15/4/2004, lại cũng Đại-nghị-viện Virginia thông qua một tu-chính-án cho Luật Tiểu-bang để công-nhận Cờ vàng ba sọc đỏ làm "Cờ di-sản của Người Mỹ gốc Việt" (tức Chương 970, đoạn 2.2-3310.2). Một bà Dân-biểu Virginia, bà Leslie Byrne, cũng đã là một trong những người chính đỡ đầu cho Nghị-quyết lấy ngày 11/5 (ngày B.S. Nguyễn Đan Quế đưa ra tuyên-ngôn của Cao Trào Nhân Bản ở VN) làm Ngày Nhân-quyền VN hàng năm trên Quốc-hội Liên-bang. Và nay, ta lại có Nghị-quyết lấy ngày 30/4 năm nay (2013) và những năm kế-tiếp làm Ngày Nam VN (hay còn gọi là Ngày VNCH).
Như vậy, ta có thể thấy được rằng vị-thế của VNCH ngày càng được phục-hồi và công-nhận, ăn khớp với những sách vở (trong cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt) cũng như dư-luận ngày càng muốn trả lại danh-dự cho miền Nam và Quân-lực VNCH. Có thể nói bản văn của Nghị-quyết SJR455 (được dịch toàn vẹn dưới đây) là một bản đúc kết khá gọn và đầy đủ về cuộc tranh đấu kiên cường của chúng ta trước tháng 4/1975 và sự thành công vượt bực của cộng-đồng chúng ta từ khi đặt chân lên nước này.
Để đón nhận tin mừng này, các cộng-đồng VN ở Miền Đông đang rủ nhau về Richmond đi diễn hành ngày 27 tháng 4 tới đây–nhằm đánh dấu một mốc mới trong cuộc đấu tranh cho chính-nghĩa VN tự do.
Tâm Việt
———————————————–
Bản Dịch Nghị Quyết 455
NIÊN-KHÓA 2013
NGHỊ-QUYẾT LƯỠNG VIỆN DO THƯỢNG-VIỆN KHỞI XƯỚNG SỐ455
Chỉ-định ngày 30/4 năm 2013 và những năm kế-tiếp, là Ngày Công Nhận Nam Việt Nam ở Virginia
Được Thượng-viện đồng-thanh chấp thuận ngày 21/2/2013 Được Hạ-viện đồng-thanh chấp thuận ngày 22/2/2013
XÉT VÌ, những người Mỹ gốc Nam Việt Nam, một dân-tộc oai hùng và cần mẫn, hiện là nhóm người Mỹ gốc Á lớn thứ tư trên đất Mỹ; và
XÉT VÌ, một cuộc di-cư vĩ-đại của người Việt miền Nam đã sang Hoa-kỳ khi bạo-quyền cộng-sản chiếm xong Việt-nam Cộng-hòa sau ngày Sài-gòn thất thủ vào năm 1975; và
XÉT VÌ, cho đến phút chót, những binh sĩ trong Quân-lực VNCH đã kiên-cường chiến-đấu để bảo-vệ nền tự do của họ một cách tài-tình, táo-bạo và can-đảm, như trường-hợp Lữ-đoàn III Kỵ-binh QLVNCH đã chứng-minh sự dũng-cảm và tài-nghệ trong chiến-đấu đến độ được lãnh Huy-chương của Tổng-thống Hoa-kỳ dành cho một đơn-vị; và
XÉT VÌ, gần 60 nghìn chiến-sĩ Hoa-kỳ đã hy-sinh trong Chiến-tranh VN và 224 nghìn binh sĩ QLVNCH đã nằm xuống để bảo-vệ quốc gia của họ; và
XÉT VÌ, mặc dầu sự hy-sinh của người Mỹ rất to lớn ở VN, một số trận chiến khắc nghiệt nhất–kể cả cuộc chiến dã-man sau khi Hoa-kỳ đã rút khỏi VN–đã được gánh vác chủ-yếu bởi các đồng-minh Nam Việt Nam của chúng ta; và
XÉT VÌ, cuộc Tổng-công-kích Tết Mậu-thân 1968 của CS là nhằm bẻ gãy ý-chí chống lại CS của quân dân Miền Nam, Quân-lực VNCH đã chống trả quyết-liệt, và không một đơn-vị nào bỏ chạy hay tan hàng; thật vậy, đến ngay cảnh-sát cũng hăng say chiến-đấu, dùng súng lục chống lại quân chính-quy của địch được võ-trang đầy đủ; và
XÉT VÌ, cùng với bộ-binh, thủy-quân, không-quân, và TQLC Hoa-kỳ, Quân-lực VNCH đã tận-diệt bộ-đội du-kích của Việt-Cộng, loại-trừ hẳn thành-phần này ra như một binh-đội còn có khả-năng chiến-đấu trong phần còn lại của cuộc chiến; và
XÉT VÌ, hầu hết các đơn-vị chiến-đấu của Hoa-kỳ đã rời VN vào năm 1972, các đơn-vị QLVNCH đã tiếp-tục chiến-đấu rất hào-hùng chỉ với một sự giúp đỡ tối-thiểu của Mỹ, đánh bại cuộc Tổng-công-kích Mùa Hè Đỏ Lửa năm ấy, một cuộc xâm-lăng quy-mô và quy-ước trên toàn miền, có chiến-xa T-54 của Liên-Xô dẫn đường; và
XÉT VÌ, chính chiến-thắng của QLVNCH vào Mùa Hè Đỏ Lửa đã buộc Bắc-Việt phải chấp nhận kết-thúc chiến-tranh qua thương thảo; và
XÉT VÌ, tiếc thay, vào năm 1974 Hoa-kỳ đã rút cầu bằng cách giảm gần hết yểm-trợ quân-sự, kể cả không-lực, cắt nghiêm-trọng việc cung-cấp dầu xăng và đạn-dược cho Quân-lực VNCH–giờ đây bị bóp nghẹt bởi thiếu hết quân-trang quân-cụ trong khi chiến-xa và pháo-đài chỉ được phát một số-lượng rất nhỏ đầu đạn, có khi xuống đến vài quả trong một ngày, thậm chí đến các bộ truyền tin cũng không cả có pin để xử dụng; và
XÉT VÌ, việc thắt chặt các đường dây tiếp-tế cho Quân-lực VNCH đã làm suy sụp tinh-thần và khả-năng chiến-đấu của họ, làm cho việc chiến-đấu hữu hiệu của ngay những đơn-vị can trường nhất của Miền Nam cũng không thể thực-hiện được trước cuộc xâm-lăng chót của quân Bắc-Việt, vào lúc đó vẫn được cung-cấp đầy đủ bởi đồng-minh Trung-Cộng và Liên-Xô của họ; và
XÉT VÌ, bởi tất cả mọi người có liên-hệ với Mỹ hay chính-quyền VNCH rất lo ngại về viễn-ảnh trả thù tệ-hại của CS nên vào phút chót, trong khi quân-đội CS tràn xuống miền Nam vào mùa Xuân năm 1975, 125 nghìn nhân-viên then chốt của VNCH đã được không-vận từ Miền Nam sang các trại tỵ nạn ở Hoa-kỳ; và
XÉT VÌ, ngay trong lúc binh lính Mỹ và nhân-viên Sứ-quán Hoa-kỳ được trực-thăng đến đón thì có những bà mẹ VN kinh hãi ném ngay con mình vào tay những người hoàn-toàn xa lạ, chỉ để mong làm sao cho con mình thoát được cảnh tắm máu sắp xảy ra; và
XÉT VÌ, chế-độ kinh-hoàng xuất hiện gần như tức-khắc nên người Việt miền Nam đã trong tuyệt-vọng trốn chạy bạo-quyền sát sinh CS, đưa đến khoảng 2 triệu người đã tìm cách trốn khỏi "thiên-đường nhân-dân" do CS Bắc-Việt hứa hẹn; và
XÉT VÌ, đi bằng những con thuyền mỏng manh, chặt nứt, rất nhiều người miền Nam đã liều lĩnh ra khơi, đi vào sóng gió bão táp của Biển Đông, đem lại cái chết của hàng trăm ngàn người bị lật thuyền, chìm xuống đáy đại-dương; mặc dầu vậy, những con số khổng-lồ người Việt miền Nam vẫn tiếp-tục ra đi từ năm 1975 đến giữa thập niên 1980; và
XÉT VÌ, cũng bắt đầu từ 1975 và kéo dài hàng thập niên sau đó, hơn một triệu người miền Nam–đặc-biệt là các cựu-sĩ-quan và công-chức chính-phủ–bị đưa vào các trại tập trung mà được gọi một cách hiền lành là các trại "học tập cải tạo," nơi đó nhiều ngàn người đã bị "cải tạo" đến chết luôn; và
XÉT VÌ, những trại tập trung của CS được nổi tiếng qua các chế-độ khổ-sai tàn-bạo, nhồi sọ về chính-trị, và những nhiệm-vụ chết người như đi chân đất dò mìn, không hề qua những thủ-tục cáo buộc tội-trạng hay xét xử trước tòa án; và
XÉT VÌ, những điều-kiện trong trại tệ hại đến mức nhiều người sống sót cho rằng gần một phần ba các tù-binh đã chết trong thời-gian bị cầm tù; và
XÉT VÌ, con số di-cư của người Việt miền Nam sang Hoa-kỳ lên tới đỉnh-điểm vào năm 1992 khi, sau hàng thập niên bị tra tấn, nhiều người sống sót từ các trại tập trung nói trên cuối cùng mới được thả ra và bảo trợ bởi gia-đình họ sang xứ này; và
XÉT VÌ, sau khi chịu cực-hình qua nhiều năm khổ đau và ngược-đãi không thể tưởng-tượng nổi, những người miền Nam đã trốn được khỏi quê hương đã tỏ ra tài-năng và thông minh vượt bực để trở thành một nhóm người dám vào thương-trường và tìm đường thăng-tiến, giải-quyết chóng vánh những bước đầu nghèo khó sau khi đến Hoa-kỳ; và
XÉT VÌ, ngày nay, 82 phần trăm người Việt miền Nam có mặt ở Hoa-kỳ là những người sinh trưởng ở đây hay là người đã có quốc-tịch Hoa-kỳ, một tỷ-lệ rất cao trong mọi nhóm di-dân có quốc-tịch; và
XÉT VÌ, qua nhiều thập niên, những người Mỹ yêu nước gốc Nam Việt Nam này đã đóng góp đáng kể vào nước Mỹ với trí-tuệ, tài-năng, quyết-tâm và lòng trung-thành của họ, với không ít con em đang phục-vụ một cách hãnh-diện trong Quân-lực Hoa-kỳ; do đó,
Thượng-viện QUYẾT-NGHỊ, với sự đồng-thuận của Hạ-viện,
Là Đại-nghị-viện Virginia sẽ lấy ngày 30 tháng Tư 2013 và cùng ngày này trong những năm kế-tiếp, làm Ngày Công Nhận Nam Việt Nam ở Virginia; và
QUYẾT-NGHỊ TIẾP,
Là Thư-ký Thượng-viện chuyển một bản của Nghị-quyết này tới Hiệp-hội Thương mại Á-châu ở Virginia và Nghị-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ đặng cho những thành-viên của hai tổ-chức này được biết về quyết-định của Đại-nghị-viện Virginia về vấn-đề này; và
CUỐI CÙNG QUYẾT-NGHỊ,
Là Thư-ký Thượng-viện đưa việc chỉ-định ngày này lên Trang Nhà Điện Tử của Đại-nghị-viện Virginia.
Nguyễn Ngọc Bích dịch, Springfield, VA
Đêm 28-29 tháng 3, 2013
**********
ĐÚNG LÀ MỘT BỌN NGU ĐẦN !
Rốt cuộc bọn đầu tôm ở Viginia vào tròng gian đảng Việt Tân để xóa bỏ việc tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30-4.
Có phải là từ nay Người Mỹ Gốc Việt thoát thai từ Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản ở Virginia đến ngày 30-4 chỉ đón mừng "NGÀY NAM VIỆT NAM" không còn biết "NGÀY QUỐC HẬN 30/4″. Thật là đau đớn khi việc tưởng niệm Ngày Quốc Hận 30 – 4 từ nay trở thành ngày người Việt Nam vui mừng được đến làm di dân rồi công dân Hoa Kỳ sau khi thể chế Việt Nam Cộng Hòa bị tiêu vong, đất nước bị Việt Cộng chiếm đoạt, cả dân tộc bị đọa đày.
Năm 1975 sau ngày 30 – 4 , The Electric Light Orchestra, một ban nhạc rock Hoa Kỳ, sáng tác một ca khúc có tên: The Saddest Day: 30 April 1975 (The Fall of Saigon) hay Sorrow About To Fall (Album: Balance of Power)
Điều này cho thấy những nghệ nhân khác chủng tộc, ngôn ngữ có ý thức nhân bản còn biết chia sẻ nỗi đau buồn của một vùng trời tự do bị lọt vào tay cộng sản trong khi bọn da vàng mất nước thì biến đau thương thành hoan hỷ, hí hửng nhờ ngày sụp đổ của thể chế Việt Nam Cộng Hòa nên được trở thành một "cộng đồng dân tộc thiểu số tân lập" ở Hoa Kỳ. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống còn chạy dài đám người vong bản này.
38 năm đám nô lệ vọng ngoại quanh quẩn múa rối, hồ hởi với những cái bánh vẽ, Ngày Nhân Quyền VN (ngày B.S. Nguyễn Đan Quế đưa ra tuyên-ngôn của Cao Trào Nhân Bản ở VN), Ngày Tỵ Nạn Việt Nam, Freedom Fighters Day (Ngày Chiến-sĩ Tự do) từ năm 2002 với SJR139, Ngày Nam VN (hay còn gọi là Ngày VNCH). Nghe đâu các cộng-đồng VN ở Miền Đông đang rủ nhau về Richmond đi diễn hành ngày 27 tháng 4 tới đây nhằm đánh dấu việc "xóa bỏ Ngày Quốc Hận 30-4.
Đã thế trong bài viết của tác giả có đoạn bóp méo lịch sử khi cho rằng:" Như vậy, ta có thể thấy được rằng vị-thế của VNCH ngày càng được phục-hồi và công-nhận, ăn khớp với những sách vở (trong cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt) cũng như dư-luận ngày càng muốn trả lại danh-dự cho miền Nam và Quân-lực VNCH."
Không phải đợi đến bây giờ mà từ 17 năm về trước. Vào Ngày 19 tháng sáu năm 1996, Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện Hoa Kỳ đã mời nhóm Vietnamese Commandos vào điều trần và sau đó Quốc Hội Hoa Kỳ đã chính thức công nhận sự hy sinh và lòng dũng cảm của các lực lượng quân sự của Nam Việt Nam, Australia, Hàn Quốc, Thái Lan, New Zealand, và Philippines qua SEC 535.
Đặc biệt Vietnamese Commandos được dành riêng một SEC 536. Sau đó lưỡng viện đã thông qua một đạo luật mới vinh danh và bồi hoàn danh dự cho Vietnamese Commandos. Những sự kiện lịch sử đó cho thấy South Vietnam hay Việt Nam Cộng Hòa đã được phục hồi vị thế và danh dự sau thắng lợi của cuộc đấu tranh và vận động của Vietnamese Commandos với cả ba ngành Tư Pháp, Lập Pháp và Hành Pháp. Chính đương kim ngoại trưởng John Kerry là một trong những người bảo trợ và giới thiệu cuộc điều trần vào ngày June 19/1996.
(Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session … Wednesday, June 19, 1996 (1997) .
http://archive.org/stream/vietnamesecomman00unit#page/6/mode/2up
Kết luận, vị thế và danh dự của VNCH và QLVNCH đã được phục hồi từ lâu. Việc được công nhận Ngày Nam VN chưa chắc đã đáng gọi là niềm vui chính đáng, bởi những Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản hầu hết là công dân của thể chế VNCH không thể vui trong ngày tang thương đau buồn của đất nước và dân tộc.
Ngày 30 – 4 mãi mãi vẫn là Ngày Quốc Hận.
Kim Âu
Chú thích:
http://www.globalsecurity.org/military/library/congress/1998_rpt/hr3616.htm
SEC. 535. SENSE OF CONGRESS REGARDING THE HEROISM, SACRIFICE, AND SERVICE OF THE MILITARY FORCES OF SOUTH VIETNAM AND OTHER NATIONS IN CONNECTION WITH THE UNITED STATES ARMED FORCES DURING THE VIETNAM CONFLICT.
(a) FINDINGS- Congress finds the following:
(1) South Vietnam, Australia, South Korea, Thailand, New Zealand, and the Philippines contributed military forces, together with the United States, during military operations conducted in Southeast Asia during the Vietnam conflict.
(2) The contributions of the combat forces from these nations continued through long years of armed conflict.
(3) As a result, in addition to the United States casualties exceeding 210,000, this willingness to participate in the Vietnam conflict resulted in the death, and wounding of more than 1,000,000 military personnel from South Vietnam and 16,000 from other allied nations.
(4) The service of the Vietnamese and other allied nations was repeatedly marked by exceptional heroism and sacrifice, with particularly noteworthy contributions being made by the Vietnamese airborne, commando, infantry and ranger units, the Republic of Korea marines, the Capital and White Horse divisions, the Royal Thai Army Black Panther Division, the Royal Australian Regiment, the New Zealand `V' force, and the 1st Philippine Civic Action Group.
(b) SENSE OF CONGRESS- Congress recognizes and honors the members and former members of the military forces of South Vietnam, the Republic of Korea, Thailand, Australia, New Zealand, and the Philippines for their heroism, sacrifice and service in connection with United States Armed Forces during the Vietnam conflict.
SEC. 536. SENSE OF CONGRESS REGARDING THE HEROISM, SACRIFICE, AND SERVICE OF FORMER SOUTH VIETNAMESE COMMANDOS IN CONNECTION WITH UNITED STATES ARMED FORCES DURING THE VIETNAM CONFLICT.
(a) FINDINGS- Congress finds the following:
(1) South Vietnamese commandos were recruited by the United States as part of OPLAN 34A or its predecessor or OPLAN 35 from 1961 to 1970.
(2) The commandos conducted covert operations in North Vietnam during the Vietnam conflict.
(3) Many of the commandos were captured and imprisoned by North Vietnamese forces, some for as long as 20 years.
(4) The commandos served and fought proudly during the Vietnam conflict.
(5) Many of the commandos lost their lives serving in operations conducted by the United States during the Vietnam conflict.
(6) Many of the Vietnamese commandos now reside in the United States.
(b) SENSE OF CONGRESS–Congress recognizes and honors the former South Vietnamese commandos for their heroism, sacrifice, and service in connection with United States armed forces during the Vietnam conflict.
http://www.gpo.gov/fdsys/pkg/FR-2009-11-12/xml/FR-2009-11-12.xml
G. VIETNAMESE COMMANDOS The Committee held a hearing on June 19, 1996, to hear testimony regarding a Vietnam-era covert action program. This operation, funded and supported by the United States, sent several hundred Vietnamese commandos into North Vietnam on espionageand sabotage missions. Nearly all of these commandos were killed or captured by the North Vietnamese. Those who were captured were not released in 1973 following the Paris peace agreement and spent as long as twenty years in North Vietnamese jails. Recently declassified documents and statements made by individuals in-volved with this program suggested that in 1964 U.S. officials directing the operation began declaring these men as killed-in-action so that the captured commandos could be dropped from the program's payroll. In a case in the U.S. Court of Claims, 281 of these commandos sought payment from the U.S. Government for the time they spend in prison. After the Committee's hearing, Senators John Kerry and JohnMcCain offered an amendment to the Defense Authorization Bill to provide these men, or their heirs, with compensation. The Administration, without reference to any outstanding legal issues, sup-ported the Kerry-McCain amendment. This provision was included in the National Defense Authorization Act for Fiscal Year 1997 signed by President Clinton. The Department of Defense Appropriations Conference Report contained identical language and provided up to $20 million for payment of the claims.
Bill Text
105th Congress (1997-1998)
H.CON.RES.269.IH
H.CON.RES.269 — Expressing the sense of the Congress regarding the heroism, sacrifice, and service of former South Vietnamese commandos in connection with United States armed forces during the Vietnam… (Introduced in House – IH)
HCON 269 IH
105th CONGRESS
2d Session
H. CON. RES. 269
Expressing the sense of the Congress regarding the heroism, sacrifice, and service of former South Vietnamese commandos in connection with United States armed forces during the Vietnam conflict.
IN THE HOUSE OF REPRESENTATIVES
April 30, 1998
Ms. SANCHEZ submitted the following concurrent resolution; which was referred to the Committee on National Security
CONCURRENT RESOLUTION
Expressing the sense of the Congress regarding the heroism, sacrifice, and service of former South Vietnamese commandos in connection with United States armed forces during the Vietnam conflict.
Whereas South Vietnamese commandos were recruited by the United States as part of OPLAN 34A or its predecessor or OPLAN 35 from 1961 to 1970;
Whereas the commandos conducted covert operations in North Vietnam during the Vietnam conflict;
Whereas many of the commandos were captured and imprisoned by North Vietnamese forces, some for as long as 20 years;
Whereas the commandos served and fought proudly during the Vietnam conflict; and
Whereas many of the commandos lost their lives serving in operations conducted by the United States during the Vietnam conflict: Now, therefore, be it
Resolved by the House of Representatives (the Senate concurring), That the Congress recognizes and honors the former South Vietnamese commandos for their heroism, sacrifice, and service in connection with United States armed forces during the Vietnam conflict.