Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012 by Lý Tưởng Người Việt
Và con đường của chúng ta
Âu Dương Thệ - Tình hình đất nước và hậu quả vô cùng tai hại của HNTU 6 cho thấy, nhóm cầm đầu chế độ độc tài toàn trị - đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng- đã hoàn toàn bất lực không giải quyết được những vấn nạn trong Đảng và vô cảm trước những bức xúc của nhân dân và nguy cơ lệ thuộc của đất nước. Chỉ vì quyền-tiền cho nên họ đang lập các phe phái đánh phá và thanh toán lẫn nhau, khinh thường trí thức, đảng viên và nhân dân, coi chuyện của đất nước là việc riêng của vài người! Chờ đợi những kẻ bất tài, vô tư cách tự ý rút lui; hay những kẻ độc tài gian ác tự biến thành dân chủ, nhân đạo là hoàn toàn không tưởng!...



"... Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị…
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá." - Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 6 15.10.2012
*
Đất nước đang phải đối đầu trước cuộc xâm lấn vừa công khai trắng trợn vừa tinh vi xảo quyệt của phương Bắc. Hệ thống chế độ độc tài toàn trị dựa trên chủ thuyết Marx-Lenin cùng với Kinh tế thị trường định hướng XHCN còn dựng lên xã hội tư bản hoang dã, dẫn tới nạn tham nhũng và bè phái cực kì khủng khiếp, nợ công chồng chất, kinh tế kiệt quệ, các tập đoàn kinh tế nhà nước đang phá sản và gây thiệt hại cho công quĩ hàng trăm ngàn tỉ đồng, khiến cho chính Nguyễn Tấn Dũng đã phải công bố trước Quốc hội ngày 22.10 là hoãn quyết định tăng lương liên hệ tới khoảng 20 triệu người ăn lương, hưu trí, trợ cấp và gia đình. (1) Trong khi ấy nông dân bị các đại gia cấu kết với cường hào đỏ tước đoạt đất đai, công nhân bị chủ nhân nước ngoài cấu kết với tư bản đỏ bóc lột! Nạn giáo dục xuống cấp nghiêm trọng, các tệ trạng "chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp" (2)…bùng nổ. Trong khi đó sinh viên ra trường thất nghiệp, chuyên viên trí thức có khả năng và tâm huyết bị gạt sang lề xã hội, nhiều nhân sĩ có tâm huyết và các Blogger bị theo dõi, chụp mũ và giam giữ…
Giữa lúc chủ quyền đang bị đe dọa, các hải đảo bị lấn chiếm, các tệ trạng xã hội bùng phát, kinh tế đang rơi vào phá sản, nhân dân đói rách và những người yêu nước bị theo dõi đàn áp thì nhóm cầm đầu làm gì, tỏ thái độ như thế nào? Họ còn biết tự trọng không, còn ý thức tinh thần trách nhiệm không? Họ thật sự chống nhóm lợi ích, hay mỗi nhóm đang ra sức bảo vệ lợi ích nhóm cho riêng mình, bất kể tới lợi ích chung của nhân dân? Họ còn uy tín, khả năng và đức độ để tiếp tục ngồi lại hay không?
Trọng ngố, Dũng hèn!
Sau một số thủ đoạn vừa ấu trĩ vừa hạ cấp công khai từ bêu xấu lẫn nhau tới chặt vây cánh của nhau giữa hai ông Trọng-Sang một bên và bên kia là ông Dũng kéo dài 21 ngày trong hai tháng 7 và 8.2012 tại các cuộc tự phê bình và phê bình của Bộ chính trị và Ban bí thư, tới các cuộc bắt một số đại gia Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá, Lý Xuân Hải và Dương Chí Dũng (3) vào dịp kỉ niệm Cách mạng Tháng 8 cho tới trước Hội nghị Trung ương 6 (HNTU 6). Nguyễn Tấn Dũng phản pháo lại bằng cách cho Ban cán sự Đảng Chính phủ mà ông ta đứng đầu họp 5 ngày rồi ra thông cáo tự khen tự bốc, phần nói các khuyết điểm thì rất mờ nhạt. (4) Cũng chính vào dịp này Nguyễn Tấn Dũng ra Công văn số 7169 /VPCP-NC (12.9) cấm một số Blog điện tử tố cáo các sai lầm và tội ác của ông Dũng và cấm đảng viên vào đọc (5), đồng thời còn hô hoán vừa để chạy tội và tranh công là chính ông đã "chỉ đạo" bắt cựu Chủ tịch Vinalines Dương Chí Dũng (6).
Tình hình nội bộ giữa những người cầm đầu càng trở nên rất căng thẳng và bất trắc, nên phe Nguyễn Phú Trọng đã phải đột ngột cho tổ chức HNTU 6 hai tuần sớm hơn thường lệ để tìm cách thanh toán số phận chính trị của Nguyễn Tấn Dũng. Tuy có nhiều vấn đề đưa ra thảo luận trong HNTU 6 là: tình hình kinh tế-xã hội 2012-13, tình hình doanh nghiệp nhà nước, chính sách đất đai, đường lối giáo dục, chuẩn bị nhân sự cấp cao cho nhiệm kì 2016-21, tái lập Ban Kinh tế trung ương. Nhưng đề tài quan trọng nhất trong HNTU 6 là "thảo luận và cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ chính trị, Ban bí thư" theo Nghị quyết Trung ương 4. (7)
HNTU 6 đã kéo dài suốt 15 ngày từ 1.10 tới 15.10 và được coi là một trong vài HNTU họp dài nhất của ĐCSVN. Trong đó suốt 5 ngày, tức 1/3 thời gian, đã dành cho đề tài "thảo luận và cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ chính trị, Ban bí thư" (8) với mục tiêu hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng. Để thực hiện mục tiêu này phe Nguyễn Phú Trọng còn tiến hành các thủ đoạn tàn tệ, như phổ biến tập hồ sơ vài trăm trang về tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân trong Bộ chính trị, Ban bí thư trong hai tháng 7 và 8, trong đó phần chính liên quan tới Nguyễn Tấn Dũng và gia đình, gởi tới 175 Ủy viên Trung ương chính thức và 25 Ủy viên dự khuyết. Ngoài ra trong suốt hai tuần Hội nghị các Ủy viên Trung ương bị theo dõi nghiêm ngặt và cấm cả liên lạc với bên ngoài, nghĩa là khinh thường các Ủy viên Trung ương. Việc kết hợp các đòn phép từ bắt giữ một số đại gia thuộc vây cánh của Nguyễn Tấn Dũng trước HNTU 6 ít ngày, tới các biện pháp trưng bày tài liệu chống ông Dũng và khủng bố tinh thần các Ủy viên Trung ương thân Nguyễn Tấn Dũng ngay trong 15 ngày Hội nghị được coi là thủ đoạn của Nguyễn Phú Trọng bắt Nguyễn Tấn Dũng phải cởi truồng trước mặt các đồng chí Trung ương. Đây chính là hành động nhằm "ám sát chính trị" Nguyễn Tấn Dũng! Đấy là chưa kể việc ông Trọng còn động viên tâm lí khi ông khóc nghẹn ngào trong dịp kỉ niệm 110 ngày sinh Lê Hồng Phong tại Thanh hóa ngày 6.9 trong lúc nhắc tới việc Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã phải hi sinh để lại con thơ 2 tuổi để ông muốn ám chỉ tới hiện tại về Nghị quyết của HNTU 4 cần có quyết định với những phần tử ở ngay cấp cao trong Đảng chỉ lo thu vén quyền lợi phe nhóm và gia đình (9). Khi so sánh như vậy là ông Trọng muốn gợi tình cảm thương tâm trong quá khứ vì đảng quên mình và gia đình để nhắc nhở hiện tại việc ông Thủ tướng chỉ biết thu vén lợi ích gia đình và bè cánh!
Cả trong Thông báo HNTU 6 và diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng ngày 15.10 đều xác nhận tệ trạng tham nhũng bùng nổ rất mạnh dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, sự làm ăn thua lỗ và thất thoát tài sản đất nước rất lớn, cũng như cách điều hành và quản trị vô trách nhiệm của các tập đoàn và tổng công ti dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, nợ công ngày càng gia tăng, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ và tình hình kinh tế đang rất hiểm nghèo. Tình trạng giáo dục tiếp tục xuống cấp, nạn bằng giả, chạy chức, chạy quyền càng gia tăng. Trong Thông báo kết thúc ngày 15.10, HNTU 6 nhìn nhận các tệ trạng xã hội và tình trạng kinh tế suy đồi hiện nay là do:
"Về khuyết điểm chủ yếu : Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa ngăn chặn, khắc phục được tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt về lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc." (10)
Đồng thời cũng xác nhận nguyên nhân là do nhiều Ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư đã bất tài, vô đức, chỉ lo thu vén cho gia đình và bè nhóm:
"Việc một số đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn có biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó, đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ, thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực trong công tác cán bộ (như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp…) và đề bạt con một số cán bộ lãnh đạo không dựa trên năng lực, trình độ và quá trình rèn luyện, gây dư luận bức xúc." (11)
Vì thế, trong HNTU 6 Nguyễn Phú Trọng và phe cánh muốn ép Trung ương đảng phải ra quyết định kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng để tránh tiếng là chỉ tấn công một mình Nguyễn Tấn Dũng, nên trong đề nghị với Ủy ban Trung ương Nguyễn Phú Trọng và phe cánh đã yêu cầu nên có một hình thức kỉ luật nào đó cả với Bộ chính trị, nhưng đặc biệt cần phải "xem xét kỉ luật đối với một đồng chí Ủy viên Bộ chính trị". Chủ ý này chính Nguyễn Phú Trọng đã xác nhận:
"Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị." (12)
Mặc dù không dám nêu tên Ủy viên Bộ chính trị đó là ai, nhưng toàn Đảng toàn dân đều biết đó là Nguyễn Tấn Dũng. Theo lời ông Trọng thì 14 Ủy viên Bộ chính trị, trong đó cả Nguyễn Tấn Dũng, đã yêu cầu các Ủy viên Trung ương ra quyết định kỉ luật chung với Bộ chính trị và đặc biệt riêng với Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng một đa số rất lớn Ủy viên Trung ương đã bỏ phiếu "không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị":
"Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị." (13)
Khi đọc tới đoạn trên thì đài truyền hình quay cảnh Nguyễn Phú Trọng đã lại "nghẹn ngào" như muốn khóc. Phải chăng ông Trọng khóc vì đau khổ về sự bất lực và thất bại ê chề của chính mình?! Trong khi đó Nguyễn Tấn Dũng ngồi ở hàng đầu lại nheo mắt cười mũi. (14) Diễn biến của HNTU 6 đã cho thấy, Nguyễn Tấn Dũng tuy nhìn nhận trong vai trò Thủ tướng đã gây những sai lầm nghiêm trọng trong việc bất lực chống tham nhũng và thất bại hoàn toàn trong việc tổ chức và điều hành các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng đã hèn không dám nhận trách nhiệm trước các sai lầm cực kì nghiêm trọng này bằng cách từ chức. Chẳng những cố đấm ăn xôi, ông Dũng còn xảo quyệt vận động vây cánh trong các Ủy viên Trung ương chống lại yêu sách của phe Nguyễn Phú Trọng.
Vì chủ quan khinh địch và không đủ bản lĩnh lẫn uy tín nên Nguyễn Phú Trọng đã không thuyết phục được các ủy viên Trung ương đẩy Dũng đi. Cuộc vận động trả đũa của Nguyễn Tấn Dũng ngay trong HNTU 6 đã khiến phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang thất bại nhục nhã. Cuộc bỏ phiếu trong Trung ương đảng với đại đa số rất lớn ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục giữ ghế Thủ tướng đã khiến cho Nguyễn Phú Trọng rất tức tối và buồn bực vì đã bị phe Nguyễn Tấn Dũng lột mặt nạ, trở thành Tổng bí thư ngố ngay trong HNTU 6. Có hiểu được hoàn cảnh và tâm trạng này của Nguyễn Phú Trọng mới có thể biết, tại sao trong diễn văn bế mạc Nguyễn Phú Trọng đã có bộ mặt buồn thiu, cử chỉ ngượng ngịu và cuối cùng lại phải sụt sùi muốn khóc khi ông ta nói tới quyết định từ chối của Trung ương đảng và chính vào lúc đó ngồi chỗm chệ ở hàng ghế đầu Nguyễn Tấn Dũng đã tỏ động tác cười thầm qua cử chỉ nhéo mắt và cười mũi!!
Những hậu quả nguy hiểm cho nhân dân và đất nước
1. Nếu mục tiêu chính của HNTU 6 là chỉnh đốn Đảng, thanh lọc những người có trách nhiệm đã để cho tham nhũng bùng nổ, các tập đoàn kinh tế nhà nước làm ăn thua lỗ làm thất thoát hàng trăm nghìn tỉ đồng tài sản của đất nước thì Hội nghị này đã hoàn toàn thất bại. Trách nhiệm thuộc về Bộ chính trị, Ban bí thư; trong đó chịu trách nhiệm cao nhất là Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng. Việc sau HNTU 6 Nguyễn Tấn Dũng vẫn ngồi lì ở ghế Thủ tướng và ngày 22.10 lại ra trước Quốc hội tuyên bố chiếu lệ "nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước Quốc hội, trước toàn Đảng, toàn dân." (15) Rồi sao nữa? Một kẻ phạm tội thì phải bị xét xử, người cầm đầu một công ti làm ăn thất bại thì phải từ chức. Đấy chính là công bằng và tự trọng. Một Thủ tướng đã đi từ sai lầm này tới sai lầm khác và gây thiệt hại rất nghiêm trọng cho đất nước mà chỉ nhận trách nhiệm và xin lỗi xuông rồi vẫn ngồi lì. Vì chính gần hai năm trước, ngày 24.11.2010, Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tuyên bố hùng dũng như vậy trước Quốc hội trong vụ Vinashin, nhưng vẫn ngồi lì lợm ở ghế Thủ tướng để tiếp tục gây ra những sai lầm nghiêm trọng khác. (16) Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng bất lực nhất, tham nhũng nhất và gia đình trị nhất, nhưng vẫn ngồi chỗm trệ trên ghế Thủ tướng trên 8 năm, cả Bộ chính trị lẫn Trung ương đảng không bứng đi được. Điều này chứng tỏ cán cân trong Bộ chính trị, Trung ương đảng đang đứng về phía nào, phía trong sạch hay phía tham nhũng, phía còn biết xấu hổ hay phía đã đánh mất lòng tự trọng! Các sự kiện này chứng minh sự bế tắc cùng cực của chế độ độc tài toàn trị.
2. Không chỉ Nguyễn Tấn Dũng bị mất mặt trước đảng viên và nhân dân vì đã bị phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang bắt cởi truồng diễu suốt 15 ngày tại HNTU 6, mà phe Nguyễn Phú Trọng-Trương Tấn Sang cũng bị đòn trả đũa sát ván của phe Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị này khi đại đa số Trung ương đảng đã bác yêu sách đòi Nguyễn Tấn Dũng phải rút lui, lột mặt nạ Nguyễn Phú Trọng là người thiếu uy tín và khả năng. Cho nên hiện nay các phe đang rất cay cú nhau và đang tìm cách tiếp tục trả thù nhau. Cụ thể nhất là chỉ một ngày sau HNTU 6 bế mạc, trong dịp gặp cử tri ở Hà nội Nguyễn Phú Trọng đã cho biết, sự việc "chưa phải là xong" (17). Rõ ràng và công khai hơn, trong hai ngày tiếp xúc với cử tri ở Sài gòn (17-18.10) Trương Tấn Sang đã tiếp tục nhạo báng gọi Nguyễn Tấn Dũng là "đồng chí X" (hay đồng chí lạ!) và khuyên Nguyễn Tấn Dũng "không đủ uy tín thì nghỉ, ở làm gì nữa" (18) và còn công kích kết án ông Dũng "Nếu chúng ta hèn nhát thì làm đơn gửi cho Đảng chúng ta nghỉ, chúng ta rút lui đi để cho những người dũng cảm làm việc" (19). Nguyễn Tấn Dũng đã trả đũa ngay bằng cách không để báo điện tử Chính phủ đưa tin cuộc nói chuyện của Trương Tấn Sang ngày 18.10 và chỉ đưa tin sai lệch cuộc nói chuyện của ông Sang ngày 17.10. (20) Không những thế, vì quá tức tối nên Nguyễn Tấn Dũng tuy không phải đại biểu Quốc hội ở Sài gòn, nhưng lần này đã nói chuyện với cử tri sinh viên và giáo sư ở Đại học Quốc gia Sài gòn và vẫn không biết ngượng đề cao "lòng tự trọng" (21). Đặc biệt nữa, trong Báo cáo dài gần 15.000 chữ trước Quốc hội ngày 22.10 Nguyễn Tấn Dũng đã không một lần nhắc tới tên Bộ chính trị (22), mặc dù có mặt cả Nguyễn Phú Trọng lẫn Trương Tấn Sang…. Như thế ông Dũng muốn cho mọi người biết rằng, đối với ông thì Bộ chính trị đã chết rồi, không còn uy tín gì nữa.
3. Việc đại đa số Ủy viên Trung ương đảng đã bác yêu cầu của Bộ chính trị, đây là lần đầu tiên xẩy ra trong ĐCSVN, chứng minh rõ ràng là, đại đa số các Ủy viên Trung ương - gồm phần lớn là các bộ trưởng, thứ trưởng các bộ quan trọng, BT tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân 63 tỉnh và thành phố - đều đã dính líu sâu vào các vụ tham nhũng, chạy chức, mua quyền. Họ không còn thiết tha tới Đảng và cũng không còn thấy tương lai của chế độ, mà chỉ còn biết thờ tiền-quyền, cấu kết với nhau để bảo vệ lợi ích nhóm. Họ là bầy sâu thì cần giữ kẻ nuôi bầy sâu, cho nên họ đã không truất phế Nguyễn Tấn Dũng! Kết quả HNTU 6 và sự chống đối nhau ngày càng công khai và mãnh liệt giữa một số người chính trong Bộ chính trị đã chứng tỏ sự phân hóa trong Bộ chính trị, Ban bí thư và Trung ương đảng đã tới đỉnh điểm.
4. Nhóm cầm đầu Bắc kinh biết rất rõ và theo dõi rất sát tình hình và những biến động trong nội tình ở cấp chóp bu ĐCSVN. Họ đang tìm cách khai thác triệt để; sẵn sàng che chở cho nhân vật nào ở Hà nội đang bị thất thế. Vì thế trước HNTU 6 ít ngày Nguyễn Tấn Dũng đã được mời sang dự Hội chợ thương mại, đầu tư ASEAN – Trung Quốc lần thứ 9 ở Nam Ninh, Quảng Tây ngày 20.9 (mặc dầu hầu hết các nước Asean chỉ cử cấp thấp sang dự). (23) và đã được Tập Cận Bình, người đứng đầu sắp tới của ĐCS Trung quốc, tiếp ân cần. Hình ảnh cuộc gặp gỡ đã được đài Bắc kinh truyền đi rộng rãi và được các đài và báo VN trân trọng phổ biến. Qua đó Bắc kinh muốn nhắn nhủ ngay cả đồng minh thân thiết của họ là Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên Bộ chính trị lẫn Trung ương đảng CSVN rằng, đừng có ép buộc quá với Nguyễn Tấn Dũng. Cho nên Nguyễn Tấn Dũng vẫn ngồi yên trên ghế Thủ tướng và chính vì thế sự kình chống nhau trong Bộ chính trị, Ban bí thư và Trung ương đảng CSVN tiếp tục gia tăng. Đây chính là sách lược của Bắc kinh muốn cho đối phương chảy máu, kiệt sức, tê liệt để từ đó ra tay thủ lợi. Chính sách chia để trị, sò hến cắn nhau ngư ông biển lợi của nhóm cầm đầu Bắc kinh đối với ĐCSVN đã được thi thố nhiều lần suốt từ thập niên 50 của Thế kỉ trước. Một VN đang rơi vào tình trạng kinh tế phá sản, nợ Trung quốc chồng chất (chỉ tính 8 tháng đầu 2012 số nhập siêu của VN với Trung quốc đã lên tới 10 tỉ USD, gần xấp xỉ với số nhập siêu cả năm 2011) (24), nội bộ đầu não phân hóa và kình chống nhau là cơ hội ngàn vàng để Bắc kinh chiếm đóng các hải đảo và ra các điều kiện để Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng phải chấp nhận.
5. Với tư duy coi việc nước là chuyện riêng, tác phong vô trách nhiệm và lề lối làm việc cà rề cà rịch từ Bộ chính trị, Ban bí thư tới Trung ương đảng khiến cho những khó khăn của đất nước ngày càng gia tăng và nguy cơ xâm lấn của Bắc kinh ngày càng nguy hiểm. Thật vậy, giữa lúc Bắc kinh đang gia tăng ngang ngược chiếm đảo và tài nguyên của VN; trong khi tham nhũng bùng nổ, kinh tế-tài chánh đang rơi vào phá sản, những bức xúc của nông dân, công nhân và công viên chức đang sôi sục thì từ khi Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư đã mở hết hội nghị này tới hội nghị khác, tổng cộng lại tất cả kéo dài trong nhiều tháng. Chỉ tính trong vài tháng gần đây mọi người đều phải giật mình về những cuộc hội họp kéo dài của Bộ chính trị, Ban bí thư, Trung ương đảng và các Ban, các Bộ… Chỉ tính riêng từ tháng 7 tới nay Bộ chính trị, Ban bí thư đã bỏ ra 21 ngày họp cho tự phê bình và phê bình, 15 ngày Bộ chính trị, Ban bí thư,Trung ương đảng họp HNTU 6. Đấy là chưa kể các Ban trung ương, Ban cán sự đảng chính phủ, các bộ, các ngành và các đảng bộ tỉnh và thành phố mở hàng loạt các hội nghị tự phê bình và phê bình kéo dài trung bình 3-5 ngày. Bao nhiêu tiền bạc và thì giờ cho những cuộc họp này. Nhưng kết quả như mọi người thấy, từ 21 ngày họp tự phê bình, phê bình của Bộ chính trị, Ban bí thư, 15 ngày họp HNTU 6 và 5 ngày họp Ban cán sự Đảng Chính phủ chẳng đi đến câu cả, vẫn là chuyện Nguyễn Như Vân, nhưng tốn kém tiền bạc của dân thì rất lớn! Tệ hại nữa là những người cầm đầu chế độ, tuy mở miệng đều nói để dân biết, dàn bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhưng tất cả các hội nghị này họ đều đóng cửa kín, không cho báo chí theo dõi, không thông tin ra ngoài. Mỗi khi họp xong thì ra bản Thông báo toàn những ngôn ngữ dao to búa lớn, tự khen, tự tha bổng cho nhau và những hứa hẹn vô thưởng vô phạt! Họ đã biến việc của đất nước và số phận của gần 90 triệu người thành việc việc riêng tư của vài người!
Nguyên nhân: Sai lầm từ hệ thống
Nhiều lão thành cách mạng, trong đó có cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, những người suốt đời đắp chăn CS cho nên nhìn thấy rất rõ chấy rận trong chế độ này ngày càng sinh sôi nẩy nở. Cả Trương Tấn Sang cũng phải nhìn nhận là "Một con sâu đã nguy hiểm huống gì một bầy" (25). Họ đã thấy lỗi từ hệ thống của chế độ độc tài toàn trị. Ngày càng có nhiều chuyên viên đã gột bỏ thái độ tránh né và thẳng thắn công khai nhìn nhận rằng, chính hệ thống tổ chức chế độ độc tài toàn trị, với cơ chế độc đảng, tôn thờ chủ nghĩa Marx-Lenin, ruộng đất thuộc chủ hữu Nhà nước (Đảng) và Kinh tế thị trường định hướng XHCN với các tập đoàn và tổng công ti làm chủ đạo đã là nguyên nhân của mọi nguyên nhân đưa tới các tệ trạng tham nhũng, chạy chức, mua quyền, bất công; cảnh đói nghèo, tụt hậu của VN so với nhiều nước trong khu vực và các nạn đàn áp tước đoạt nhân phẩm của nhân dân chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Và từ đó đưa tới lệ thuộc phương Bắc ngày càng nguy hiểm.
Lỗi hệ thống là như thế nào? Hệ thống (System) là nền tảng, kết cấu để một sự vật được hình thành. Như một căn nhà đứng vững được là nhờ có nền xi măng và tường cột vững chắc, mái nhà có ngói tốt để che mưa nắng... Nếu các cơ cấu này được xây dựng với chất liệu tốt thì căn nhà vững chãi trước các bão tố. Ngược lại, nếu xây dựng với chất lượng xấu thì căn nhà sẽ siêu vẹo, sụp đổ, không bõ công sửa chữa. Hệ thống chính của một chiếc xe hơi là bộ máy, khung xe và các bánh xe. Nếu các bộ phận của hệ thống này tốt thì xe chạy tốt. Nếu xe chỉ hoành tráng bề ngoài nhưng chất lượng dỏm thì chỉ chạy ít ngày sẽ hư và nguy hiểm tới tính mạng!
Trong cơ chế chính trị ở VN hiện nay thì hệ thống của nó bao gồm: chế độ độc đảng, tư tưởng Marx-Lenin, lấy tập trung dân chủ làm guồng máy vận hành chế độ; trước đây dùng doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể để tổ chức kinh tế, nay được thay một phần bằng Kinh tế thị trường định hướng XHCN, với các tập đoàn và tổng công ti độc quyền và nhiều ưu đãi.
Sự tan rã của Liên xô và sự chuyển mình của các nước CS Đông Âu sang dân chủ đa nguyên trước đây hai thập kỉ đã chứng minh không thể chối cãi được là chế độ CS với các hệ thống cơ bản trên đây đã hoàn toàn sai lầm và không tưởng, nó vĩnh viễn thuộc về quá khứ và không còn tương lai. Chính hệ thống chính trị này đã gây ra nạn độc tài, chỉ một vài người suy nghĩ và quyết định cho tất cả, ý kiến và các quyền chính đáng của nhân dân không được tôn trọng, luật pháp chỉ bao che cho kẻ có quyền-tiền. Tình trạng này dẫn tới lạm quyền, tham nhũng, đàn áp, dối trá, kinh tế xuống dốc, nhân dân đói nghèo và đạo đức suy đồi. Từ khi thực hiện Kinh tế thị trường định hướng XHCN còn thúc đẩy sự thỏa hiệp giữa kẻ có quyền và kẻ có tiền làm sống dậy một xã hội tư bản hoang dã trước đây mấy thế kỉ. Đây là những hình ảnh rất đau thương của VN suốt trên 60 năm ngụp lặn trong hệ thống XHCN!
Sự thực rõ ràng như trắng với đen, ngày với đêm như vậy. Nhưng Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu CSVN hiện nay, vừa lú vừa ngố làm như không biết những gì đã xảy ra ở Liên xô, Đông Âu hay vẫn mù quáng chỉ biết sách vở! Từ khi lên làm Tổng bí thư trong mỗi HNTU ông thường nêu ra một loạt các câu hỏi, làm như ông rất khách quan của người làm công tác khoa học và cũng muốn lắng nghe ý kiến người khác. Ông Trọng đã đặt ra các câu hỏi như, tại sao từ trước tới nay Bộ chính trị từ thời này sang thời khác tổ chức hàng trăm cuộc tự phê bình và phê bình và ban bố không biết bao nhiêu nghị quyết, nhưng các tệ trạng tham nhũng, bán chức mua quyền ngay ở cấp cao ngày càng trầm trọng? Hay tại sao sau trên ¼ thế kỉ gọi là "đổi mới" nhưng đất nước vẫn lạc hậu, giáo dục càng xuống cấp? Trong HNTU 6 ông Trọng đòi phải giải quyết tốt các vụ khiếu kiện của nông dân, nhưng lại vẫn khăng khăng đòi ruộng đất độc quyền của nhà nước và khẳng định "không phải là quyền sở hữu" của nhân dân. Như vậy chính Nguyễn Phú Trọng đã phủ nhận quyết định của ĐH 11. (26)
Những gì ông đang hô to nói lớn và những gì ông ta đang làm hoàn toàn mâu thuẫn với nhau, như ngày với đêm. Ai theo dõi các hoạt động của Nguyễn Phú Trọng thì thấy rất rõ là, ông Trọng đang tự cột hai chân của mình bằng chế độ độc đảng và chủ nghĩa Marx-Lenin đã phá sản và không tưởng. Không những thế, ông còn tự cột hai tay vào dây Kinh tế thị trường định hướng XHCN và vào "anh cả phương Bắc". Thế rồi ông Trọng đấm ngực than trách tại sao bao nhiêu giải pháp và nghị quyết đưa ra chẳng kiến hiệu gì cả, thậm chí tình hình ngày càng nguy khốn! Cụ thế mới nhất là sau 21 ngày tự phê bình và phê bình và 15 ngày thảo luận nhưng kết quả HNTU 6 vừa qua đã trở thành con số không! Chẳng những thế ông còn bị Nguyễn Tấn Dũng và đa số trong Trung ương lột mặt nạ trở thành ông Tổng ngố ngay trước 200 quan văn võ giường cột của chế độ mà ông từng giáo dục và ca tụng! Rõ ràng Nguyễn Phú Trọng đang tự dẫn mình vào ngõ bí, vì cứ mãi luẩn quẩn với cái hệ thống chính trị đã sai lầm và phá sản, như chính ông đã qui định trong Cương lĩnh Chính trị 2011!
Mọi sai lầm và tội lỗi đều bắt nguồn tự hệ thống độc đảng và chủ nghĩa Marx-Lenin. Thay vì sáng suốt và dũng cảm biết lắng nghe nhân dân, đi đầu là thanh niên, trí thức, kể cả các đảng viên tiến bộ, ông Trọng lại ngang ngạnh chụp mũ và kết án những ai lên tiếng cảnh giác! Thật vậy, sau khi phải chấp nhận quyết định của đa số Trung ương đảng không khiển trách Bộ chính trị, Ban bí thư và nhất là không cách chức Nguyễn Tấn Dũng thì Nguyễn Phú Trọng tiên liệu là, việc này sẽ làm đảng viên vô cùng thất vọng, các trí thức và nhân sĩ sẽ vô cùng bất mãn và đại đa số nhân dân sẽ chống lại nhóm cầm đầu bất lực. Vì thế, thay vì nghiêm túc tự trách mình, trong diễn văn bế mạc Nguyễn Phú Trọng đã lại tìm cách đánh phủ đầu phong trào chống đối trong Đảng và ngoài xã hội sau HNTU 6, bằng cách chụp mũ cho những ai chỉ trích, kết án sự bất lực của Nguyễn Phú Trọng là "các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá":
"Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá." (27)
Con đường của chúng ta (28)
Sau HNTU 6 ngay cả những ai lạc quan và hi vọng là Nguyễn Tấn Dũng sẽ tự biết điều xin rút lui, hay nếu không thì Bộ chính trị và Trung ương đảng sẽ bắt ông ta phải từ chức Thủ tướng. Nhưng cả hai kì vọng này đều không xẩy ra. Trái lại, cuộc xung đột và đánh phá giữa các phe trở nên mãnh liệt hơn, dã man hơn. Quyền lợi ích kỉ cá nhân, gia đình và phe nhóm đang được các người có quyền lực đặt ưu tiên hơn trước những đói nghèo của nhân dân, tụt hậu của đất nước và nguy vong của tổ quốc! Các hành động, cách cư xử và tư cách của những người có quyền lực từ trong Đảng đến Chính phủ cho tới bọn quan tham ở các địa phương rõ ràng là sản phẩm của toàn bộ hệ thống XHCN. Ai cũng nhìn thấy, nay đã tới giai đoạn họ không còn coi nhau là đồng chí nữa mà chỉ còn vì đồng tiền mà thôi! Chính họ còn không thể cứu được mình thì làm sao chờ đợi họ cứu dân, cứu nước! Đây là bài học và kết luận chính xác nhất từ sau HNTU 6 của đại đa số nhân dân trong nhiều giới, kể cả những đảng viên CS tiến bộ còn biết giữ lòng tự trọng.
Càng ngày càng nhiều người ý thức rằng, muốn chống tham nhũng có hiệu quả, chấm dứt phung phí tài sản nhân dân của các tập đoàn kinh tế nhà nước, chấm dứt nạn mua chức bán quyền, chấm dứt bất công và đàn áp, phục hồi các quyền tự do của công dân, phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ hữu hiệu chủ quyền của đất nước thì chỉ có con đường duy nhất là phải chấm dứt chế độ độc tài toàn trị với những quái thai của nó là chủ nghĩa Marx-Lenin và Kinh tế thị trường định hướng XHCN!
Do đó chọn chủ nghĩa Dân chủ Đa nguyên thay thế cho chủ nghĩa độc tài toàn trị là một tất yếu lịch sử của dân tộc ta!
Chọn chế độ Dân chủ đa nguyên vì nó gần với xã hội con người nhất, nó hiểu mặt tốt và mặt xấu của con người, qua kinh nghiệm xương máu bao nhiêu thế kỉ từ Đông sang Tây đã cho thấy quyền lực càng lớn thì độc quyền càng tàn bạo. Vì ý thức về qui luật chính trị này nên chế độ Dân chủ đa nguyên hiểu rõ và biết cách tổ chức và điều hành một xã hội văn minh qua nguyên tắc tam quyền phân lập độc lập và bình đẳng với nhau, cùng với pháp quyền, đa đảng, tự do báo chí và kinh tế thị trường. Hệ thống Dân chủ đa nguyên dựa trên những cơ sở căn bản này đã được thực tế chứng minh từ mấy thế kỉ nay ở rất nhiều nước. Không những thế, chế độ Dân chủ đa nguyên có khả năng tự biến đổi và tự cải thiện trong trật tự và hòa bình, nó phủ nhận dùng giải pháp bạo lực trong sinh hoạt chính trị vì bạo lực là con dao hai lưỡi. Nói tóm lại, Dân chủ đa nguyên là chế độ gần với xã hội con người nhất, mang lại ấm no hạnh phúc, gìn giữ nhân phẩm và bảo vệ công bằng so với tất cả các chế độ chính trị khác từ trước tới nay. Các bằng chứng này đã được chứng minh hùng hồn ở hầu hết các nước Âu châu, Úc châu, nhiều nước ở Mĩ châu, Á châu và đang mở sang cả Phi châu.
Chế độ Dân chủ đa nguyên là một sáng tạo chung của nhân loại rất có giá trị đã mang lại hạnh phúc, ấm no, tự do dân chủ và văn minh cho nhiều dân tộc và ngày càng được trân trọng ở khắp năm châu. Trái với chủ nghĩa CS Marx-Lenin vừa không tưởng vừa cực kì tàn bạo dã man, đã giết hại hàng trăm triệu người, gây hận thù giữa các thành phần dân tộc, gây ra những cuộc tị nạn khủng khiếp. Trong đó dân tộc VN là nạn nhân đau khổ nhất, từ di cư Bắc Nam, cải cách ruộng đất vô luân, tới cuộc nội chiến tàn khốc nhất trong lịch sử, tiếp đến các trại cải tạo và mấy triệu người trở thành thuyền nhân... Thế rồi từ đó đến nay đất nước vẫn nghèo đói tụt hậu, nhân dân mất tự do và nay Tổ quốc còn đang đứng trước cuộc xâm lấn từ phương Bắc!
Mục tiêu chung của chúng ta rất lớn, rất quan trọng, không thể một vài cá nhân hay đoàn thể quán xuyến được. Đối thủ của chúng ta tuy đang yếu nhưng vẫn còn rất ngang ngạnh và đầy xảo quyệt. Cho nên chúng ta phải tạo một mẫu số chung lớn, đại đa số và các khuynh hướng dân chủ đều có thể tham gia, đem nhiệt tình và trí óc góp công, góp của, góp sức. Trong đó thanh niên, trí thức và chuyên viên phải đi đầu làm gương. Trong lúc này các đảng viên CS tiến bộ và biết quí lòng tự trọng có thể đóng góp phần rất quan trọng để chấm dứt nhanh và gọn chế độ độc tài toàn trị. Các cộng đồng VN ở nước ngoài cần tích cực và đóng góp thích hợp vào cuộc vận động chung của toàn dân tộc.
Mục tiêu của chúng ta muốn tới là, đối với trong nước: Một chế độ dân chủ đa nguyên, pháp trị, tự do cho mọi người, đa đảng, tự do báo chí, kinh tế thị trường... Đối với bên ngoài: bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các hải đảo, hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế có cùng mục tiêu biến Đông Nam Á và Á châu thành một khu vực hòa bình, hợp tác cùng phát triển... Con đường chúng ta đi tới mục tiêu là dùng phương pháp đấu tranh chính trị phi bạo lực, kết hợp tâm trí và sức mạnh của nhân dân các giới ở trong nước, kiều bào VN ở nước ngoài và kết hợp sức mạnh của thời đại với tất cả các nước và tổ chức quốc tế dân chủ tiến bộ...
Cả thế kỉ qua nhiều thế hệ, nhiều đoàn thể và cá nhân đã bị đánh lừa, đã bị hi sinh phi lí cho những ý thức hệ sai lầm và những tổ chức cực đoan, phiêu lưu và thiển cận. Cho nên sự kết hợp mọi tầng lớp nhân dân trong giai đoạn mới hiện nay phải được xây dựng trên một số nền tảng cản bản để đánh tan các nghị kị và ngăn ngừa hữu hiệu những toan tính tôn thờ độc tài, bạo lực... Đó là phải dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và trách nhiệm.

Tình hình đất nước và hậu quả vô cùng tai hại của HNTU 6 cho thấy, nhóm cầm đầu chế độ độc tài toàn trị - đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng- đã hoàn toàn bất lực không giải quyết được những vấn nạn trong Đảng và vô cảm trước những bức xúc của nhân dân và nguy cơ lệ thuộc của đất nước. Chỉ vì quyền-tiền cho nên họ đang lập các phe phái đánh phá và thanh toán lẫn nhau, khinh thường trí thức, đảng viên và nhân dân, coi chuyện của đất nước là việc riêng của vài người! Chờ đợi những kẻ bất tài, vô tư cách tự ý rút lui; hay những kẻ độc tài gian ác tự biến thành dân chủ, nhân đạo là hoàn toàn không tưởng!
Chúng ta không thể chần chừ, lưỡng lự, ngồi chờ sung rụng. Chúng ta phải có quyết tâm cao, kết hợp rộng lớn, kiên trì đấu tranh vận động. Nhưng cũng không được phép làm một cách mù quáng, không cân nhẳc kĩ lưỡng, mà phải có mục tiêu thật rõ ràng, kế hoạch thật chặt chẽ và phương pháp tiến hành thích hợp... Dân chủ đa nguyên của thời đại là con đường của chúng ta để sớm chấm dứt độc tài, tham nhũng, kiến tạo tự do dân chủ, phú cường cho đất nước, hạnh phúc của nhân dân và ngăn chặn hữu hiệu cuộc xâm lấn từ phương Bắc!
25.10.2012
Âu Dương Thệ
danlambaovn.blogspot.com
gửi Dân Làm Báo
___________________________________
Chú thích:
(1) Nguyễn Tấn Dũng, báo cáo Quốc hội ngày 22.10.2012, Chính phủ điện tử (CP) 22.10(2) Cộng sản điện tử 15.10
(3) Thông báo HNTU 6, 15.10
(4) CP 19.9. Xem thêm của cùng tác giả: "Nguyễn Phú Trọng - Nguyễn Tấn Dũng đánh phá nhau:
Tự phơi bày bản chất chế độ tư bản hoang dã!" trong tạp chí Dân chủ & Phát triển: http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2012/nptvantd.htm
(5) CP 12.9, BBC 12.9
(6) CP 5.9
(7) Thông báo HNTU 6 (TB), 15.10
(8) Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 6, 15.10
(9) http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Media/Media.aspx?cm_id=2021&type=1&co_id=0#, 6.9
(10) TB
(11) Như trên
(12) Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 6
(13) Như trên
(14) http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Media/Media.aspx?cm_id=2184&type=1&co_id=0#(15) CP 22.10
(16) Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố trước QH ngày 24.11.2010: „Là người đứng đầu Chính phủ, tôi xin nhận trách nhiệm về những hạn chế yếu kém nêu trên của Chính phủ. „. Xem thêm của cùng tác giả: „Tự tha bổng về những sai trái cực kì nghiêm trọng trong vụ Vinashin: Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng đã tự nhổ vào mặt, làm nhục Đảng và tước đoạt quyền chính đáng của nhân dân!", http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2011/vinashin.htm
(17) Vietnam Net 16.10
(18) http://www.vtc.com.vn/vod/15174/Ban-tin-thoi-su-ngay-17-10-2012.html
(19) BBC 18.10
(20) CP 17.10
(21) Thông tấn xã VN 21.10
(22) CP 22.10
(23) Đài Bắc kinh 20.9, CP 20.9
(24) BBC 19.10
(25) VNN 7.5.2011
(26) Về quyền đất đai, Đại hội 11 đã bác bỏ "Phương án 1" chủ trương coi đất đai là thuộc "công hữu", tức thuộc quyền của Nhà nước (thực tế là Đảng CS độc quyền) và chấp thuận với trên 65% số phiếu cho "Phương án 2", trong đó không nói rõ đất đai là "công hữu" hay "tư hữu". Dưới đây là Biên bản Đại hội 11 liên quan tới quyền về đất đai:
"2- Về đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
- Phương án 1 : "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu" (như Dự thảo).
Có 472 phiếu đồng ý, chiếm 34,3%.
- Phương án 2 : "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp" (như tinh thần Đại hội X, có bổ sung thêm từ "tiến bộ").
Có 895 phiếu đồng ý, chiếm 65,04%
Như vậy, Đại hội đồng ý: "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp" (như tinh thần Đại hội X, có bổ sung thêm từ "tiến bộ")Xem: Biên bản kiểm phiếu biểu quyết về một số vấn đề trong các văn kiện trình Đại hội XI , CS 19.1.2011. Xem thêm của cùng tác giả: Suy nghĩ gì về Đại hội 11 vừa kết thúc? Vở phường chèo vừa hạ màn thứ nhất! http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2011/npt.htm
(27) Nguyễn Phú Trọng, diễn văn bế mạc HNTU 6
(28) Mời xem "Dự án về một sách lược chung trong giai đoạn chuyển tiếp: Những Người Dân chủ Đa nguyên hãy thống nhất sách lược và hành động để thắng độc tài toàn trị!" của cùng tác giả, trong: http://www.dcvapt.net/
www.dcpt.org hay www.dcvapt.net
Hiệp Hội Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam
by Lý Tưởng Người Việt
Trung Quốc định khai thác triệt để tài nguyên ở cái gọi là "thành phố Tam Sa"

Linh Phương (Petrotimes) Chủ tịch tỉnh Hải Nam Trung Quốc Jiang Dingzhi vừa ngang nhiên cho biết các kế hoạch mới được công bố của tỉnh sẽ tăng cường quy hoạch cơ sở hạ tầng để khai thác triệt để các nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có ở cái gọi là "thành phố Tam Sa" mà Trung Quốc đã lập nên trái phép hồi tháng 7/2012.




Trụ sở của cái gọi là "thành phố Tam Sa" phi pháp
được đặt ở đảo Phú Lâm,
thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam

Theo Tân hoa xã ngày 26/10, tuyên bố trên được ông Jiang đưa ra tại một hội nghị về khai thác đại dương được tổ chức mới đây.

Trước đó, hồi tháng 9, giới chức ở cái gọi là "thành phố Tam Sa" đã vạch kế hoạch phát triển 4 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện chương trình xây dựng nhà ở tại "thành phố" phi pháp này.

Các dự án này bao gồm việc xây dựng (trái phép) hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa – nơi đặt trụ sở của cái gọi là "thành phố Tam Sa" phi pháp.

Theo kế hoạch nói trên, 7 con đường với tổng chiều dài 5km sẽ được cải tạo hoặc xây dựng mới để cải thiện tình hình giao thông trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ xây dựng (trái phép) một nhà máy lọc nước khử muối có khả năng xử lý 1.000 m3 nước biển/ngày trên đảo để đảm bảo nguồn cung cấp nước ngọt cho lực lượng công vụ (quân sự, cảnh sát, hải giám, ngư chính, công chức...) và những ngư dân đang sinh sống, đồn trú trái phép tại đảo Phú Lâm.

Ngoài ra, các dự án cũng bao gồm việc xây dựng (trái phép) các công trình giao thông nối kết các đảo, xây một bến tàu và xây dựng phát triển đảo Cây, cũng thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đồng thời triển khai chương trình xây dựng nhà ở với tổng vốn đầu tư 2.970.000USD.

"Chúng tôi sẽ đẩy nhanh các dự án xây dựng ở (cái gọi là - PV) "Tam Sa" trong các lĩnh vực bao gồm cả giao thông, viễn thông, cung cấp điện nước, hậu cần và xử lý nước thải", Jiang tuyên bố.

Theo Jiang, tỉnh Hải Nam cũng sẽ ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển nguồn lực. Ngoài ra, tỉnh cũng sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển các ngành thủy sản, du lịch, dầu mỏ và khí đốt.

Đây là những hành động ngang ngược của Trung Quốc tiếp nối một loạt các hoạt động vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Linh Phương
http://www.petrotimes.vn/news/vn/bien-dong/thoi-su-bien-dong/trung-quoc-dinh-khai-thac-triet-de-tai-nguyen-o-cai-goi-la-thanh-pho-tam-sa.html

*
Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng trái phép hạ tầng ở Hoàng Sa
Văn Khoa (TNO) - Tân Hoa xã hôm nay 26.10 đưa tin giới chức tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) vừa thông báo kế hoạch tăng tốc xây dựng cơ sở hạ tầng ở cái gọi là "TP.Tam Sa".
Trung Quốc ngang nhiên lập ra "TP.Tam Sa" tại đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa (Việt Nam) hồi tháng 7 để tự cho mình quyền quản lý cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Chủ tịch tỉnh Hải Nam Tưởng Định Chi ngày 25.10 lên giọng nhấn mạnh: "Chúng tôi sẽ đẩy mạnh các dự án xây dựng giao thông, viễn thông, nước, cung cấp điện, hậu cần và xử lý chất thải".
Cũng theo ông Tưởng, chính quyền Hải Nam sẽ ưu tiên xây dựng các cơ sở phục vụ việc khai thác tài nguyên, đồng thời hỗ trợ phát triển ngành thủy sản, du lịch và ngành dầu khí.
Đây là hành động mới nhất nằm trong ý đồ hợp lý hóa cái gọi là "TP.Tam Sa".
Trụ sở "TP.Tam Sa" do Trung Quốc xây phi pháp
trên đảo Phú Lâm (thuộc Hoàng Sa của Việt Nam) - Ảnh: AFP
Trước đó, Trung Quốc ngang nhiên tổ chức lễ kéo cờ kỷ niệm Quốc khánh tại đảo Phú Lâm, tổ chức diễn tập tại khu vực vùng biển Hoàng Sa hay lập Phòng khí tượng trên đảo Phú Lâm…
Ngày 11.10, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị nêu rõ: "Những hoạt động nói trên của phía Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".
Văn Khoa
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121026/trung-quoc-day-manh-xay-dung-trai-phep-ha-tang-o-hoang-sa.aspx
*
Học giả Trung Quốc, Đài Loan và "đường Lưỡi bò"
Quỳnh Chi, phóng viên RFA

2012-10-26

Một nhóm học giả Trung Quốc và Đài Loan chuẩn bị nghiên cứu về đường lưỡi bò với mục đích đưa ra cơ sở pháp lý cho tuyên bố chủ quyền của mình.



Bản đồ đường lưỡi bò -
Photo courtesy of Us Defense Department
Liệu đây sẽ là một trong những bước đầu tiên để Bắc Kinh và Đài Bắc hợp tác sâu hơn trên Biển Đông? Quỳnh Chi hỏi chuyện ông Dean Cheng, chuyên gia về Biển Đông tại Quỹ Heritage, Washington D.C.

Trước tiên, trả lời câu hỏi "Liệu nghiên cứu này sẽ là một dấu hiệu tích cực?" ông cho biết:

Dean Cheng: Đàm phán nào cũng đều có lợi cả. Bản thân tôi không nghĩ là việc làm này của nhóm có thể mang lại kết quả nào nhưng nói chung trao đổi, đàm phán thì không bao giờ có hại cả.

Quỳnh Chi: Cho đến bây giờ cộng đồng quốc tế cũng không chắc chắn về định nghĩa đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ông có nghĩ là nghiên cứu này sẽ đưa ra một định nghĩa rõ ràng hơn?

Dean Cheng: Quan điểm của Trung Quốc về đường lưỡi bò luôn khác nhau. Quan điểm chính phủ Trung Quốc thay đổi bất kể đó là tuyên bố về lịch sử, tuyên bố về lãnh hải hay tuyên bố chủ quyền. Nếu mà kết quả của nhóm nghiên cứu này trùng với quan điểm của chính phủ thì nó sẽ làm rõ nhiều thứ bất kể là về lịch sử hay luật pháp. Nhưng câu hỏi tôi đặt ra là nghiên cứu có thực sự có kết quả hay không và cũng không biết phía chính phủ có chấp nhận kết quả nghiên cứu này không.

Quỳnh Chi: Nhiều người quan ngại rằng đây là một trong những bước khởi đầu để Bắc Kinh và Đài Bắc có những hợp tác sâu hơn trên Biển Đông, ý ông thế nào?
Dean Cheng: Dĩ nhiên là có thể. Vấn đề là có nhiều nước tuyên bố chủ quyền trong đó có cả Trung Quốc và Đài Loan. Mặc dù Bắc Kinh và Đài Loan có những vấn đề riêng, đối với vấn đề Biển Đông, hai nước này có quan điểm và ở một cái thế khá giống nhau xét về tuyên bố lãnh hải. Cho đến giờ phút này thì Trung Quốc và Đài Loan càng có một quan điểm nhất quán về Biển Đông. Các nước như Việt Nam, Philippines, Brunei… có thể có cảm giác rằng họ đang đối đầu với một khối hơn là một nước. Nếu Trung Quốc và Đài Loan hợp tác về mặt chính trị và ngoại giao thì việc này hiểu được. Còn hợp tác quân sự thì là một chuyện khác. Tôi không nghĩ là có ai đó có thể nói rằng Trung Quốc sẽ cho tàu sửa chữa và tiếp nhiên liệu ở các cảng Đài Loan.

Quỳnh Chi: Giả dụ rằng Đài Loan và Trung Quốc sẽ hợp tác sâu rộng hơn trên Biển Đông, liệu nó có gây ra bất lợi nào cho phía Đài Loan?
Dean Cheng: Dĩ nhiên là nó sẽ tạo ra một vấn đề khá thú vị liên quan đến Hoa Kỳ. Mọi người cũng thấy đấy, việc Đài Loan gởi tàu ra phía Bắc đảo Điếu Ngư làm Hoa Kỳ phản ứng mạnh mẽ. Nói về vấn đề Biển Đông, Hoa Kỳ cũng nhiều lần nói rằng nước này không đứng về phía nào và muốn một giải pháp hòa bình và đảm bảo tự do hàng hải. Nếu mà tàu của Đài Loan xâm phạm lãnh hải của Việt Nam hay Philippines chẳng hạn thì đó là lúc nước này gặp rắc rối với Hoa Kỳ.

Quỳnh Chi: Trở lại công tác nghiên cứu của nhóm học giả Trung Quốc và Đài Loan thưa ông, dư luận nên nhìn nhận hoạt động này như thế nào? Ý tôi là xem nó như một hoạt động tư nhân hay của chính phủ?
Dean Cheng: Tôi không có danh sách những nhân vật trong nhóm nghiên cứu này. Nhưng đối với phía Đài Loan thì những hoạt động, hội thảo như thế này thường là từ những nhóm tư nhân. Nói về phía Trung Quốc thì càng khó biết. Nếu những học giả đó nằm trong các viện chính sách hay các trường đại học thì ắt hẳn là có liên quan đến chính phủ. Không có một viện chính sách (think tank) độc lập nào ở Trung Quốc; tất cả phải liên quan đến các bộ, ngành. Về một mức độ nào đó, nghiên cứu cũng có thể làm cho chính phủ nhận thức vấn đề.
Mục đích của nhóm nghiên cứu

Quỳnh Chi: Ông có đoán được mục đích chính của nhóm nghiên cứu này?
Dean Cheng: Tôi nghĩ là Trung Quốc đang có hai mục đích. Thứ nhất là tìm những điểm chung với Đài Loan trong vấn đề lãnh hải nhằm tăng cường tuyên bố chủ quyền của mình ở đường lưỡi bò. Cho đến bây giờ thì tôi nghĩ là Trung Quốc có thể làm Đài Loan công nhận là đường lưỡi bò có trước năm 1949 – là năm mà Đài Loan dựa vào để tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.

Nếu việc này thành công thì Trung Quốc càng mạnh mẽ hơn trong tuyên bố chủ quyền của mình. Thứ hai là nghiên cứu các khía cạnh luật pháp để hỗ trợ cho tuyên bố của mình. Tôi muốn nói rằng Trung Quốc sẽ tuyên bố chủ quyền dựa vào luật pháp theo cách hiểu rất "đặc biệt" của Bắc Kinh về luật biển. Theo đó, Bắc Kinh xem vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác cũng là lãnh hải cũng họ.

Quỳnh Chi: Cuối cùng thưa ông, liệu kết quả nghiên cứu này có ảnh hưởng gì đến lập trường của quốc tế về đường lưỡi bò?
Dean Cheng: Cộng đồng quốc tế thường xuyên lặp lại yêu cầu của mình là Trung Quốc phải giải thích ý nghĩa của đường lưỡi bò. Và tại các địa điểm và thời điểm khác nhau thì Trung Quốc đưa ra giải thích khác nhau. Nếu hiểu một cách chung chung thì Trung Quốc cho rằng chủ quyền lãnh hải của mình nằm trong đường lưỡi bò. Bất kể là kết quả nghiên cứu như thế nào, tôi không nghĩ là cộng đồng quốc tế sẽ chấp nhận nó một cách dễ dàng. Nói chung, tôi vẫn nghĩ là mục đích của nghiên cứu này chỉ nhằm làm Bắc Kinh và Đài Bắc xích lại gần nhau hơn trong vấn đề Biển Đông.

Quỳnh Chi: Xin cám ơn ông.
Trong cuộc họp báo hôm 23 tháng 10, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, ông Ngô Sĩ Tồn công bố rằng mục đích của nghiên cứu này là nhằm giải thích đường lưỡi bò trên cơ sở pháp lý. Dự tính, nghiên cứu này sẽ được thực hiện trong vòng 1 năm. Theo giới quan sát, quan điểm của cả Trung Quốc và Đài Loan là Biển Đông thuộc về "người Trung Quốc".

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/cn-tw-research-u-shape-is-reliable-qc-10262012125421.html
by Lý Tưởng Người Việt

Tỳ Kheo Tiến Sĩ Basnagoda Rahula Chuyển Ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh & Diệu Ngộ Mỹ Thanh
  Trong hai chương trước, Đức Phật đã giới thiệu toàn bộ tiêu chuẩn để đánh giá các quyết định.  Dựa trên cùng tiêu chuẩn đó, Đức Phật liệt kê tám hành động bất hảo sau đây mà chúng ta cần phải tránh.  Trong chương này chúng ta sẽ triển khai xem làm thế nào để tránh bị các hành động bản năng này điều khiển vì chúng rất dễ mang lại khổ đau.

   Nói chung, có năm thói quen chánh cần phải tránh, đã được phân loại trong Ngũ Giới.  Nhiều người nghĩ rằng Ngũ Giới là những luật lệ đơn giản, rõ ràng, nhưng khắt khe.  Tuy vậy, khi quan sát kỹ giáo lý quan trọng này của Đức Phật, chúng ta thấy rằng điều đókhông phải lúc nào cũng đúng.  NgũGiới thường không giống theo cách ta hiểu, vì trong bảng giải thích bằng tiếng Pali, mỗi giới không được trình bày rõ ràng lắm.  Chúng ta sẽ làm sáng tỏ những điều Đức Phật dạy về Ngũ Giới, nhưng trước hết, chúng ta hãy phân tách từng điều lệ trong tám điều theo thứ tự.

  1. KHÔNG SÁT HẠI

   Đức Phật luôn dạy chúng ta tránh tướcđoạt mạng sống.  Chính xác, hànhđộng này được hiểu như là tấn công bất cứ sinh vật nào –bằng vũkhí hay sức mạnh cơ bắp.  Giới luậtđầu tiên trong Ngũ giới bao gồm cả việc giết người và thú.

   Lời dạy này có một vị trí quan trọng trong giáo lý của Đức Phật vì Ngài đã kêu gọi chúng ta phải tôn trọng sự sống.  Đối với Đức Phật, bất cứ sự sống nào cũng đáng được coi trọng, nhất là của người vàthú vật.  Dĩ nhiên, cuộc sống phải dựa vào sự sống để tồn tại, nhưng Đức Phật không bao giờ cho phép việc diệt hại bừa bãi sự sống.

   Những hình thức sát hại nào được bao gồm trong giới này? Nghiên cứu kỹ kinh tạng cho ta thấy "hủy diệt sự sống" bao gồm các hình thức sát hại sau đây.

   Theo Đức Phật, giết người là một hành động hủy diệt sự sống.  Không thể chối cãiđiều đó.  Đức Phật không bao giờ cho phép  cá nhân hay tập thể sát hại kẻkhác.  Ngài nói, "Ta bảo vệ sự sống của mình, thì người khác cũng quý trọng sự sống, tránh né cái chết, và tìm kiếm hạnh phúc.  Vậy tại sao ta lại giết nhau?"[2]  Với thái độ này, Đức Phật luôn thuyết phục tăng đoàn của Ngài tôn trọng đồng loại, và không bao giờ nên tước đoạt mạng sống của họ.  

   Việc Đức Phật phản đối hành động giết người dựa trên nhiều yếu tố.  Trước hết là vì Đức Phật quý trọng mạng sống con người hơn tất cả mọi thứ. Ngài nói: "Được sinh ra làm người là một cơ hội hiếm có".[3]  Trong giáo lý của Đức Phật, mạng sống con người luôn được đề cao vì chỉ có con người mới có thể đạt được Niết Bàn, mức độ cao nhất của sự phát triển nội tâm.  Kế đến, triết lý của Đức Phật cũng không bao giờ chấp nhận cho hànhđộng sát hại, vì nó tạo ra sự sợ hãi và đau đớn.  Dựa trên hai yếu tố này, Đức Phật tuyên bố rõ ràng hành động giết người có nghĩa là hủy diệt sự sống.

   Tự tử, theo Đức Phật, là một biểu hiện khác của việc hủy diệt sự sống.  Ngài không tin rằng tự tử là giải đáp cho những vấn đề của con người.  Trong các bài giảng, Đức Phật thường nhấn mạnh đến nghiệp quả của các nỗ lực của con người.  Được có thân người với bao tiềm năng to tát, chúng ta không được chạy trốn các vấn đề, mà phải đối mặt với chúng.  Tự tử là hành động chối bỏ tiềm năng to lớn mà chỉ có con người mới được sở hữu.

   Đức Phật là một trong những người đầu tiên chống đối việc tự tử.  Quan trọng hơn nữa, Ngài còn có thể là người đầu tiên ngăn ngừa việc tự tử bằng sự can thiệp tràn đầy lòng bi mẫn.  Khi Rajjumala, một đầy tớ gái, muốn tựtử, Đức Phật đã sẵn lòng giúp đỡ cô.  Cô gái kể với Đức Phật rằng cô đã mất lòng tin nơi cuộc sống vì cô luôn bị chủ hành hạ.  Đức Phật an ủi cô gái, và đến nói chuyện với người chủ của cô.  Ngài biết được cô gái đã bị đối xử như nô lệ.  Đức Phật kiên nhẫn thuyết phục bà chủ nhận Rajjumala làm con nuôi.[4]

  Đức Phật xác nhận rằng khuynh hướng tự tử là một trạng thái tinh thần mất quân bình.  Ngài nói, "Bị thúcđẩy bởi ảo tưởng (mucchita), con người tự sát bằng dao kiếm, uống thuốc độc, treo cổ, hay nhảy xuống vực sâu".[5]   Người có hành động tự tử thiếu sựphán đoán sáng suốt.  Trong những lúc nội tâm bị xáo trộn, ta cần phải phấn đấu để hành động sáng suốt, hơn làtước đoạt mạng sống của mình.

   Tuy nhiên trong kinh tạng có kể hai trường hợp đặc biệt ngoại lệ.[6]  Đức Phật đã không trách hai vị đệ tử xuất gia của Ngài khi họ tìm đến cái chết, vì họ mắc những chứng bệnh nan y và phải chịu đau đớn cùng tột.  Hai thí dụnày cho ta thấy cũng có những trường hợp ngoại lệ, nhưng cơ bản là Đức Phật không bao giờ khuyến khích hành động tự tử như là một giải pháp cho những xung đột và vấn đề nội tâm của một con người.  Tự tử hầu trốn tránh vấn đề là hành động hủy diệt sự sống.

    Theo Đức Phật, việc giải trí bằng săn bắn, cũng bị coi làhành vi tước đoạt mạng sống.  Đức Phật từ bi không bao giờ chấp nhận việc ta bày tỏ niềm vui khi nhìn thấy một con vật đang đau đớn.  Ngày nọ, trên đườngđến thành Savatthi, Đức Phật nhìn thấy đám trẻ đang hành hạ một con rắn.  Ngài nhận thấy động cơ đàng sau hành động tàn nhẫn của đám trẻ là tìm sự vui thú khi nhìn thấy con rắn đau đớn.  Ngài giúp đám trẻ hiểu rõ về tính độc ác trong hành động đó.

  Đức Phật đã làm rõ quan điểm của mình khi nói rằng, "Những kẻ giết hại thú vật làm vui sẽ không bao giờ được hạnh phúc."[7]

   Theo Đức Phật, việc cúng tế thú vật cũng là hành động tước đoạt mạng sống.  Giết thú vật để cúng tếthần thánh là một nghi lễ phổ biến trong thời Đức Phật. Trong những buổi tế thần này, các con thú bị cột hay bị treo trong suốt thời gian buổi lễdiễn ra trước khi bị giết.  Rất nhiều kinh điển cho thấy Đức Phật hoàn toàn chống đối các nghi thức này.

   Trong kinh Kutadanta,[8]  Đức Phật trích dẫn một chuyện ngụ ngôn đểnhấn mạnh đến sự vô ích và tàn ác trong việc giết thú vật tế thần.  Ngài nhận thấy rằng vua Mahavijita đã có một buổi tế thần long trọng mà không vấy một giọt máu nào.  Đức Phật nói, "Trong buổi tế thần đó, không có một con trâu, dê, gà, chim, hoặc heo bị sát hại.  Với bơ, dầu, sữa, mật và đường, nhà vua cũng đã có phước báu đầy đủ từ các vị thần".  Kể cả những người hầu của vua Mahavijita"cũng tiếp tục làm nhiệm vụ của họ mà không rơi giọt nước mắt nào" vì không có con thú nào bị giết cả.

  Đức Phật đã xác nhận rõ rằng việc giết thú vật trong các nghi lễvừa lãng phí, vừa là một minh họa cho lòng ác độc của con người.

GIẾT THỊT ĐỂ ĂN THÌ THẾ NÀO?

   Một trong những vấn đề tranh cãi triền miên về đạo đức con người, là nếu giết thịt để ăn thì có được chấp nhận không.  Ngày càng có nhiều người khẳng định rằng thú vật không phải là nguồn thức ăn cho con người.  Chúng ta sẽ thấy quan điểm của Đức Phậtđối với vấn đề gây tranh cãi này rất lý thú và hữu ích.

   Quanđiểm của Đức Phật về việc ăn thịt thú vật rõ ràng là dựa vào nhiều yếu tố quan trọng khác.  Ngài cho phép các vị tỳ kheo có thể tiếp nhận thịt, cá nếu họ không chứng kiến con vật bịgiết cho họ ăn.  Điều quan trọng là các vị tỳ-kheo không bao giờ tự sửa soạn bữa ăn cho mình.  Mỗi ngày một lần họ mang bình bát đi từng nhàđể khất thực.  Họ phải tiếp nhận bất cứthức ăn gì cúng dường cho họ, thường là một phần thức ăn của gia đìnhđã tự nấu.

   Vào thời đó có rất nhiều thú rừng và dân số quá thưa thớt, nên con người trong xã hội đó ăn chủ yếu là thịt.  Các vị tỳ-kheo không có sự chọn lựa nào ngoài việc phải ăn những gì được cúng dường.  Thí dụ này gợi ý rằng con người có thể dựa vào thịt thú vật để sống khi họ không có chọn lựa nào khác.

   Một bài kinh quan trọng trong Tăng Chi Bộ xác nhận quan điểm này của Đức Phật.  Trong bài kinh đó Ngài khuyên các đệ tửtại gia tránh dựa vào nguồn thịt thú vật nếu họ có sức khỏe (viriya).[9]   Điều này dường như muốn nói rằng nếu người có đủ sức khỏe để làm việc thì cần tham gia vào nông nghiệp, hơn là sửdụng những phương thức dễ dàng như giết thú nuôi trong nhà hoặc bẫy thú hoangđể ăn. Dĩ nhiên, không phải ai cũng cần trở thành nông gia – nhưng ta cóthể sử dụng sức mạnh của mình để làm bất cứ công việc gì phù hợp giúp ta có phương tiện mua hoặc trao đổi các sản phẩm mà nhà nông thu hoạchđược.

   Như vậy một người bệnh, không tự lực được có thể làm bẫy để bắt thú hoang; nhưng sau khi khỏe lại, người ấy cần phải trở lại với nghề trồng trọt, hay những nghề tương tự.  Trong trường hợp bình thường, dùng súc vật làm nguồn thức ăn là sai, nhưng trong những hoàn cảnh bất khả kháng, mỗi cá nhân có thể quyết định khác đi.

  Đức Phật kể trường hợp người thiếu sức khỏe thì có lý do để có thể ăn thịt thú vật, điều đó đúng trong xã hội của thời Đức Phật.  Tuy nhiên, cũng có những hoàn cảnh và xãhội buộc người ta phải sinh sống bằng thịt thú vật.  Thí dụ, những người sống gần Bắc Cực, không thểtìm được bất cứ thu hoạch nông nghiệp nào để sinh sống.  Kết quả là họ đành phải giết và ăn thịt thúđể sống còn.  Đức Phật cũng chấp nhận rằng trong trường hợp khó khăn, không thể tìm ra sản phẩm nông nghiệp thì ta có thể sống bằng thịt thú còn hơn là bị chết đói.

   Tuy vậy, Đức Phật dạy ta không nên giết thú vật để lấy thịt hoặc mua thịt thú khi các loại thực phẩm khác thì tràn đầy.  Theo Đức Phật, việc tham ăn thịt thú khiến người ta thích giết hại, nhất là khi họ có thể kiếm được bao thức ăn bổdưỡng khác bằng những phương cách vô hại.

  1. KHÔNG LẤY CỦA KHÔNG CHO

   Trong Ngũ Giới, thói quen không nên làm kế tiếp là  adinna + adana veramani, nghĩa đen là, "không nên lấy của không cho", không trộm cắp.  Tuy nhiên cụm từ Pali này có ý nghĩa rộng rãi hơn định nghĩa theo lệ thường này.

   Hợp từ adinna + adana bao gồm sự hối lộ, ăn trộm, ăn cướp, xâm chiếm đất đai, cưỡng đoạt nhà cửa, lừa đảo, hoặc bất cứ mánh khóe nào để có tiền, của cải, hay lợi lộc.

   Đức Phật quan sát thấy nhiều hình thái "lấy của không cho" rất thịnh hành trong xã hội thời đó.  Người giúp việc ăn cắp tiền hoặc lấy đồ đạc của gia chủ. Vợ dối gạt chồng để đoạt lấy gia tài.  Các băng đảng cướp bóc thôn làng và thị thành.  Nhà buôn lường gạt khách hàng, thổ phỉ chặnđường cướp khách vãng lai, những kẻ muốn mau giàu nhận hối lộ.  Rõ ràng là tất cả các hình thức chiếmđoạt sai trái như thế đều bao gồm trong những điều không nên làm.

  Đặc tính của hành vi sai trái này là "lấy của không cho bằng cách trộm cắp".[10]   Hiển nhiên là Đức Phật khuyên các đệ tửcủa mình kiềm chế không sử dụng các biện pháp như gian dối, tham nhũng, hay cưỡng đoạt tài sản để làm giàu.

3.  KHÔNG TÀ DÂM

   Lời khuyên kế tiếp của Đức Phật với hàng đệ tử tại gia là tránh sự tà dâm (kamesu micchacara veramani).  Kamesu có nghĩa "bất cứ hình thức thỏa mãn nhục dục nào".  Micchacaralà một từ ghép có nghĩa "hạnh vi bất hảo". Lời khuyên này nhằm hướng dẫn con người thỏa mãn sắc dục như thếnào để điều đó không trở thành là một vấn đề cho họ và người xung quanh.

   Như đã nói trước đây, Đức Phật nhìn nhận rằng tính dục là một bản năng mạnh mẽ nơi con người. Ngài bảo cả đàn ông lẫn đàn bà đều chỉ thấy sắc, thinh, hương, hoặc xúc chạm của người mình yêu thích là hấp dẫn hơn cả.[11]  Bản năng thỏa mãn tình dục của con người quá mạnh mẽ, nên Đức Phật ban những lời khuyên để hàng đệ tử tại gia có thể kiềm chế dục vọng của họ.

  Dưới đây chúng ta sẽ nói qua những hoạt động tình dục mà Đức Phật khuyên ta nên tránh.

Không Chung Thủy

   Trong kinh Sigalovada, Đức Phật dạy rằng trong một mối liên hệ gắn bó, cả hai người đều phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm đối với nhau.  Và cả hai cần tránh tìm kiếm những mối quan hệ khác.

   Tuy vậy, sự trung thành đối với nhau đó dường như còn tùy điều kiện. Không phải khi đã bắt đầu có mối liên hệ gắn bó với nhau làngười nam hay người nữ đó đã được định đoạt là phải tùy thuộc vào nhau mãi mãi.  Sự vô trách nhiệm, thiếu chung thủy và không làm tròn bổn phận của một đối tượng, cho phép người kia chấm dứt mối liên hệ và tìm đối tượng khác.  Câu nói sau đây của Đức Phật hỗ trợ cho ý tưởng này:

     Người vợ không nên xem thường [na atimannati] một người chồng nhiệt tình, phấn đấu [để thành đạt], thỏa mãn nhu cầu của vợ, và luôn chăm sóc vợ mình.[12]

   Câu này cho ta thấy sự gắn bó cần được hỗ tương.  Trong xã hội thời Đức Phật, đàn ông có trách nhiệm tạo ra của cải.  Đức Phật khuyên họ phải siêng năng và phấn đấu để thành công.  Họ cũng phải sử dụng tiền của để chăm sóc và cung cấp tiện nghi cho vợ con.  Người vợ không được xem thường một người chồng có trách nhiệm như thế.

  Điều đó cũng có nghĩa là người vợ có quyền xem thường một người chồng bê tha, không có chí phấn đấu để thành công, lãng phí thời gian, và bỏbê bổn phận đối với vợ.  Người vợ có quyền tự do tìm một người bạn đời khác trong trường hợp người chồng quáthiếu trách nhiệm đối với vợ và gia đình.

   Dĩ nhiên, không phải là Đức Phật khuyên người chồng hay vợ có thểtìm kiếm những mối quan hệ ngoài hôn nhân khi người phối ngẫu không làm tròn trách nhiệm.  Mà Đức Phật muốn nhắc nhở rằng việc tìm một đối tượng có trách nhiệm vẫn tốt hơn là trung thành với một người vô trách nhiệm.  Đức Phật cho cả người nam lẫn người nữ, quyền tự do rời bỏ một người vô trách nhiệm và lựa chọn người tốt hơn.

   Tuy nhiên, Đức Phật vẫn khẳng định rằng, khi người vợ hay chồng có trách nhiệm và chung thủy, thì người phối ngẫu phải hết lòng duy trì mối quan hệ đó.  Theo Đức Phật, nếu quan hệ với người khác ngoài vợ hay chồng mình là đã phạm vào giới tà dâm.

DụDỗ

   Đức Phật cũng xác định sự dụ dỗ – gạ gẫm liên hệ tình dục bằng sự gian trá, hứa xuông, và những đòi hỏi tình dục vô lý – là một hình thức của tà dâm.  Trong kinh Veludvareyya, Đức Phật khuyên các đệtử tại gia tránh dụ dỗ, rù quyến, đó cũng là một nỗ lực để tránh tà dâm.  Ngài bảo người nam hãy so sánh cảm giác của họ với người khác bằng cách sau đây: "Tôi ghét những người quyến rũ vợ tôi. Như vậy, người khác cũng ghét tôi quyến rũ vợ họ".[13]  Đức Phật giải thích rằng phương cách so sánh này sẽ giúp họ dễ dàng hiểu được sự dụ dỗ, quyến rũ là tà dâm.

Cưỡng Dâm

   Một hình thức khác của tà dâm là việc sửdụng sức mạnh để giao cấu.  Dạng tà dâm này bao gồm bất cứ sự cưỡng hiếp nào, thí dụ như hiếp dâm, cưỡng bức, quấy rối tình dục, vân vân.  Đức Phật không bao giờ chấp nhận việc sử dụng bạo lực.  Tất cả mọi hành động của con người phải vô hại đối với người khác.  Cưỡng dâm là hành động vi phạm nguyên tắc quan trọng nhất này.

  Đức Phật cho rằng người cư sĩ nếu gìn giữ để tránh phạm tội cưỡng dâm thì đó là một dấu hiệu tiến bộ.[14]   Trong các thí dụ mà Đức Phật đưa ra cho ta thấy nam giới dễ phạm vào những hành động sai trái này.  Họ mon men tiếp cận với các thiếu nữđộc thân hay người đã có gia đình được sự bảo vệ của người khác,[15] hoặc họ dùng sức mạnh đểcưỡng hiếp nạn nhân.[16]  Đức Phật khuyên chúng ta nên tránh những hành động sai trái như thế.  Tóm lại,đối với Đức Phật, bất cứ hành động cưỡng dâm nào cũng đều là tà dâm.

Loạn Luân

   Chính vì vậy, Đức Phật cũng xếp loạn luân vào loại tà dâm.  Ngài không chấp nhận hành động loạn luân kể cả khi sự quan hệ tính dục này được đồng thuận.[17]  Dầu việc tránh phạm tội loạn luân là một nguyên tắc xã hội, nhưng Đức Phật tôn trọng nguyên tắc này vì sựích lợi của nó. Ngài cho rằng hành động loạn luân là một dấu hiệu của sự thoái hóa nơi con người.[18]    Đức Phật khuyên các đệ tử tại gia của Ngài tránh phạm tội loạn luân vì sự kiềm chế này góp phần vào sự tiến bộcủa cá nhân cũng như của xã hội.

Lạm Dụng Tình Dục Trẻ Em

   Theo Đức Phật, hành động lạm dụng tình dục trẻ em cũng là một dạng của tà dâm.  Ngài phê bình rằng những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em hay người thiểu năng còn thấp hèn hơn loài thú vật.[19]  Đức Phật kể rằng ngay cả các con chóđực cũng không giao cấu với các con chó cái còn chưa trưởng thành vềtình dục.  Vì thế, bất cứ kẻ nào lạm dụng tình dục trẻ em là đã vi phạm luật lệ đạo đức mà cả đến loài chó cũng tôn trọng.

Quan Hệ Tình Dục Bừa Bải

   Một dạng khác của tà dâm, theo Đức Phật, là hành vi phóng túng, buông lung trong tình dục.  Đối với người cư sĩ, Đức Phật luôn khuyên họ tiết chế trong mọi hình thức thỏa mãn nhục dục.  Quá bê tha, phóng túng là một cực đoan; tự hành xác là một cực đoan khác.  Con đường trung dung cũng có thể giúp người cư sĩ thọ hưởng các dục lạc.  Đức Phật sử dụng câu "sốlượng vừa đủ" để chỉ sự điều độ trong ăn uống, nhưng điều đó cũng cóthể áp dụng cho tất cả mọi hình thái thỏa mãn dục lạc khác, kểcả sự thỏa mãn những ham muốn nhục dục.

   Câu"bừa bãi trong tình dục" không thể hiểu một cách đơn giản.  Nó có thể là sự tham gia vào nhiều mối quan hệ tình dục cùng một lúc, đòi hỏi thỏa mãn thái quá nơi người tình, hay hăng say tìm kiếm nhiều phương cách để thỏa mãn nhục dục.  Thái độ của chúng ta đối với tình dục sẽđề ra giới hạn cho sự điều độ hay buông lung.  Quan điểm sai lầm cho rằng việc không dừng thỏa mãn dục lạc sẽmang lại hạnh phúc, là nguyên nhân đưa ta đi quá đà.

  Rõ ràng là Đức Phật không cho rằng mối quan hệ giữa người nam và nữ chỉ là để sinh con.  Mà Ngài coi mối quan hệ đó là nguồn vui của người cư sĩ.  Điều đó được thể hiện qua lời dạy củaĐức Phật, "Người chồng phải bằng lòng, hạnh phúc (santuttho) với vợ mình, chứ không nên tìm đến những người phụnữ khác".[20]  Từ santutthobao gồm ý nghĩa về tình dục.  Sự đòi hỏi về tình dục không phải là điều ta cần luôn đè nén; người cư sĩ cóquyền thỏa mãn đòi hỏi đó.  Vấnđề là ta phải biết giới hạn của sự điều độ.

  Ngoài ra, việc chung sống trước hôn nhân và đồng tính luyến ái thì sao?  Chúng tôi không tìm được tài liệu gì liên quan đến những vấn đề này trong giáo lý của Đức Phật.  Vì vậy, thái độ thích hợp nhất là đánh giá cả hai vấn đề này theo những nguyên tắc chung mà Đức Phật đã nói đến trong những trường hợp khác.  Như chúng ta đã biết, hành động với ý đồ xấu và hành động đem lại những hậu quảtiêu cực là các tiêu chuẩn chúng ta cần xét đến khi đánh giá.

   Một trong những quan niệm vĩ đại nhất trong Phật giáo là sự tự do lựa chọn của một cá nhân.  Do đó, một sự thay thế vô hại cho mối quan hệ tình dục truyền thống giữa nam và nữdường như không có gì mâu thuẫn với tiêu chuẩn đánh giá hành động mà Đức Phật đã đề ra.

  1. TRÁNH NÓI DỐI

  Đức Phật khuyên cộng đồng cư sĩ hãy tránh nói lời không thật với ýđịnh lừa đảo.  "Ý đồ xấu" là điều then chốt cần tránh của giới này.  Chúng ta cần phải quán sát ý nghĩ của mình để tìm ra động cơ ở phía sau việc nói sai sự thật.  Nếu động cơlà để được lợi mình một cách không công bằng hoặc để gây tai hại, thì đólà nói lời gian dối.

   Mặc dù thuật ngữ musavada được nhắcđến cả trăm lần trong kinh tạng, nhưng định nghĩa của nó, tương tự nhưnhiều thuật ngữ khác, luôn ngắn gọn.  Tuy nhiên, qua nhiều đoạn kinh chúng ta có thể đoán được điềuĐức Phật thật sự muốn nhắn nhủ trong giới luật này.  Đoạn trích dẫn sau đây là một thí dụ:

     Nếu một người làm hại đến quyền lợi của tôi bằng lời gian dối, thì hành động đó thật đáng ghét.  Nếu tôi cũng hành động như vậy, thì hànhđộng của tôi cũng đáng ghét đối với người khác....  Người quán chiếu được như vậy cần tránh lời gian dối (musavada).[21]

   Đoạn trích dẫn này cho ta thấy đặc tính của lời nói dối là ý muốn xâm phạmđến quyền lợi của người khác.  Ý đồxấu và những hậu quả tai hại trước mắt là những yếu tố nổi bật của lời nói dối.  Các kinh cho ta thấy có nhiều loại nói dối gây tai họa lớn, do đó, cần phải tránh.  Dưới đây là tóm tắt của một số loại này.

Báo Cáo Sai Sự Thật

   Báo cáo sai sự thật là một hình thức nói dối khác mà Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài nên tránh.  Trong xã hội thời Đức Phật, rất nhiều nhà tư tưởng hăng hái vận động để tìm môn đệ. Do đó, những người ủng hộ các trường phái tư tưởng khác nhau cố ý xuyên tạc những lời phát biểu của các vị thủ lãnh đối lập, để gây tai tiếng cho các vị này.  Ngay những lời giảng của Đức Phật cũng bị người ta cố tình diễn giải sai lệch đểgây tai tiếng cho Ngài.  Ngài cho rằng sự xuyên tạc đó là một hành động bất hảo cần phải tránh.

Buộc Tội Oan Và Khai Man

   Sự buộc tội oan và lời khai man là hai hình thức khác của lời nói dối mà Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài nên tránh.  Kinh Mahasihanada[22]cho ta một thí dụ về việc buộc tội oan mà Đức Phật đã phê bình.  Ngài dạy rằng khi nói về việc làm sai trái của ai đó, dù ở nơi công cộng hay chốn riêng tư, thì ta chỉ nên nói "về những gì đã xảy ra".[23]  Ngài khẳng định rằng việc khai man sẽgây tai họa cho bản thân người nói cũng như những người xung quanh.  Cả hai hành động này đều là gian dối, ta cần phải tránh phạm vào.

Hứa Xuông

   Đức Phật cũng khuyên ta nên tránh những lời hứa không đúng sự thật chỉ nhằm đạt được lợi lộc cho bản thân, vì đó cũng là một hình thức nói dối.  Ngài xếp những kẻ khéo miệng thuộc loại nói dối này.[24]   Người có khả năng giúp đỡ bạn, nhưng viện đủ lý do để thoái thác trách nhiệm đối với bạn, cũng thuộc loại gian dối này.[25]   Nhiều người còn có thể "lừa gạt một vịBà-la-môn, người tu hành hoặc bất cứ vị thầy tâm linh nào bằng cách nói dối".[26]  Thí dụ trong trường hợp này là những người đệ tử muốn được thầy nhận dạy thì hứa dối rằng mình sẽ làm tròn trách nhiệm.  Trong tất cả các trường hợp này, ý đồ gian dối thầm kín là đặc tính của lời nói không thật.

Giả Danh

   Đức Phật bảo việc giả danh cũng là một hình thức nói dối mà chúng ta cần phải tránh.  Lời nói dối này bao gồm việc đưa ra những thông tin sai lệch về trình độ chuyên môn, khả năng,  thành tích, đức hạnh, hầu đạt được những lợi lộc mà bản thân họ không xứng đáng được hưởng.  Thổi phồng về mức độ chứng đạt tâm linh cũng là một thí dụ của việc giả danh. Theo Đức Phật, sự phát triển nhân cách chưa đầy đủ là nguyên nhân đưa đến hành động này.

Nói Lời Không Thật Với Hảo Ý

   Theo Đức Phật, nếu nói lời không thật, với ý định tốt đẹp để phục vụ cho một mục đích lành mạnh, thì hành động đókhả dĩ được chấp thuận.  Đức Phật cũng sử dụng ngay chính sự không thật đó để hướng người nghe đến những quyết định hay hành động thiện hảo (và Đức Phật cũng thường giữ im lặng, như là một cách để không phải nói sự thật, khi việc nói lên sựthật chẳng giúp ích gì cho người nghe).

   Thí dụ, Kesi, người nài ngựa, bạch cùng Đức Phật rằng ông ta muốn giết đi mấy con ngựa khó dạy.  Đức Phật liền trả lời rằng Đức Phật cũng sẽ "giết" những người không bao giờ đạt được tiến bộ nội tâm.  Ngạc nhiên về câu trả lời của Đức Phật, Kesi chất vấn lại rằng ông không hiểu tại sao Đức Phật, người đã dạy về lòng từ bi, lại giết người.  Lúc đóĐức Phật giải thích rằng Ngài sử dụng từ "giết" có nghĩa là "bỏ ra ngoài".[27]  Nói cách khác, Đức Phật đã sử dụng ngay chính lời không thật để thuyết phục Kesi nên thả những con ngựa chứng đótrở lại rừng thay vì giết chúng.

   Ngoài ra, cũng có những trường hợp, Đức Phật cố ý nói lời không thật như là một cách để chờ đúng lúc mới nói sự thật.

   Một thí dụ rõ ràng là lời bảo đảm củaĐức Phật với bà Gotami rằng đứa con đã chết của bà sẽ được làm sống lại.  Nhưng để chữa trị cho đứa bé, Đức Phật bảo bà Gotami phải đem về một nắm hạt cải từ một gia đình chưa bao giờcó người chết.  Đức Phật nhận thấy rằng việc nói sự thật lúc đó (rằng đứa bé đã chết rồi không thể sống lạiđược) sẽ không ích lợi gì cho bà Gotami vì bà đang quẩn trí.  Với trí tuệ, Đức Phật sử dụng chính điều không thật này như là một cách để trì hoãn việc nói lên sự thật.  Phương cách này đã giúp bà Gotami dần dần chấp nhận cái chết của đứa con với sự tĩnh ngộ.

  1. ĐỪNG     ĐỂ RƯỢU LÀM THÂN TÂM ĐIÊN ĐẢO

   Giới luật này đã gây nên nhiều tranh cãi.  Một số người tranh luận rằng giới này có nghĩa là sự kiêng cử hoàn toàn tất cả các chất gây say.  Kẻ khác lại cho rằng nó chỉ giới hạn việc uống rượu.  Chúng ta hãy quán xét kỹ giới luật này để tìm ra ý nghĩa đích thực nhất của nó.

   Cụm từ Pali để chỉ cho giới luật gây nhiều tranh cãi này là suramerayamaj-japamadatthana veramani.  "Kiêng khem" là ý nghĩa của từ veramani, nhưng những từđứng phía trước đó mới thật là không rõ ràng và rắc rối.  Đó là một hợp ngữ của năm từ.  Sura, meraya, majja dường như được dùng để chỉ ba loại rượu mà người ta sử dụng trong thời của Đức Phật.  Pamada, một từ chuyên môn trong Pali mang ý nghĩa "không chú ý," "lơ đễnh," hoặc "trì hoản," nhằm chỉ sự bất lực trong hành động hay suy nghĩ đúng đắn của người say rượu.  Thana có rất nhiều nghĩa, nhưng khi dùng để nói về giới luật này, nó có nghĩa là "có thể gây ra".  Như thế, nói chung, giới này có nghĩa là "tránh xa những chất say có thể khiến tâm mê muội và thân điên đảo".

   Sự mơ hồ này không chỉ tiềm ẩn trong việc chuyển ngữ, mà còn nằm ngay nơi giới luật.  Liệu có phải ý Đức Phật là khuyên cộngđồng cư sĩ tránh uống rượu, vì nó thường khiến tâm thần bấn loạn, thân thể dã dượi?  Nếu không, liệu cóphải Đức Phật chỉ khuyên họ tránh dùng rượu quá độ?  Nói cách khác,Đức Phật cho rằng những hiểm nguy được cảnh báo là do rượu, hay do việc sử dụng rượu quá độ?

   Chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật không bao giờ áp đặt những luật lệ khắt khe cho hàng đệ tử tại gia của Ngài.  Hơn nữa, vào thời Đức Phật, một số tập tục coi rượu là thức uống thiêng liêng, số khác lại cho rằng rượu cần thiết cho sức khỏe và hạnh phúc. Trong nền tảng xã hội đó, chúng ta khó tin rằngĐức Phật đã quyết liệt cấm hàng cư sĩ hoàn toàn không được sử dụng rượu.  Khi khuyến giáo Sigala, Đức Phật nhắc nhởrằng một người không nên bê tha rượu chè vì sự bê tha này sẽ khiến ngườiđó đánh mất sức khỏe và tiền bạc.[28]   Như vậy, dường như Đức Phật quan tâm nhiều hơn về ảnh hưởng của rượu đối với tinh thần, sức khỏe và của cải vật chất của các vị cư sĩ tại gia.

      Như vậy rõ ràng là Đức Phật đề ra giới này để ngăn ngừa các vị đệ tử tại gia thường xuyên uống rượu hoặc uống quá độ, có nghĩa là, bị nghiện rượu.

Lạm Dụng Thuốc

   Chúng tôi không tìm thấy tài liệu nào trong các kinh nói về việc lạm dụng các loại thuốc vì hiện tượng này không xảy ra vào thời của Đức Phật.  Tuy nhiên với tình trạng sử dụng thuốc bừa bãi hiện nay, thì cũng giống như việc uống rượu quá độ, chắc chắn là Đức Phật cũng sẽ khuyên các đệ tửtại gia của Ngài tránh xa chúng….

   Sử dụng thuốc để chữa bệnh thì không cógì sai trái.  Nhưng dùng thuốc để thỏa mãn ảo giác là một thí dụ của việc vượt quá giới hạn sử dụng phù hợp.

   Lạm dụng thuốc cũng là đi ngược lại nguyên tắc chung của Đức Phật trong việc đánh giá một hành động.  Trước đây chúng ta đã nói về tác ý hànhđộng, và kết quả của hành động, cả hai hợp lại sẽ cho ta thấy hànhđộng đó có hiệu quả hay không như thế nào.  Trong vấn đề lạm dụng thuốc, chúng ta chẳng tìm thấy tác ý hay kết quả hành động thiện hảo nào trong đó.

  1. TRÁNH     NÓI LỜI CHIA RẼ

   Kế đến, Đức Phật khuyên các đệ tửtại gia của Ngài tránh nói lời chia rẽ. Từ ngữ Pali dùng để chỉ lời nói chia rẽ là pisunavaca.  Pisuna có nghĩa"ác ý, vu khống, cay cú".  Vaca là lời nói.  Gộp chung lại, pisunavaca có nghĩa là "sử dụng ngôn ngữ để chia rẽ các mối liên hệ".

   Nói dối cũng có thể tạo sự chia rẽ giữa mọi người, nhưng nói dối và pisunavacathật sự khác nhau.  Vì pisunavaca là lời nói thật hay được phóng đại đôi chút nhắm làm tổn hại một mối quan hệ.  Đức Phật nhận định rằng "nói với đàng kia chuyện mình nghe được ở đây, và nói ở đây chuyện mình nghe được ở đàng kia"là đặc tính của lời nói gây ra chia rẽ giữa mọi người.[29] 

   Đức Phật khẳng định Ngài là người "dùng lời nói để mang lại sự đoàn kết, hòa hợp".[30]    Do vậy, Ngài khuyên các đệ tử của mình nên "ưa thích sự đoàn kết, khuyến khích sự đoàn kết, và dùng lời nói đểmang lại đoàn kết".[31]   Ngài luôn bảo họ cần phải tránh sử dụng bất cứ hình thức nào của lời nói mà có thể đe dọa đến sự đoàn kết giữa mọi người.

  1. TRÁNH     NÓI LỜI THÔ LỖ

   Trong chương 8, chúng ta đã khẳng định rằng giới luật này là điều kiện tiên quyết cho một mối liên hệ lành mạnh.  Tránh nói lời thô lỗ rất quan trọng đến nỗi Đức Phật đã khuyên hàng đệ tử tại gia của mình luôn cẩn trọng trong cách nói năng của mình.

   Theo kinh Veludvareyya, ta cần tránh nói lời thô lỗ vì những lời nhưthế "thật khó chịu và gay gắt đối với người nghe".[32]  Trái lại, lời nói nhẹ nhàng thì "êm dịu tai nghe và đi thẳng vào trái tim của mọi người".[33]  Đức Phật tin tưởng mãnh liệt rằng việc sử dụng ngôn ngữ bừa bãi chẳng bao giờ giúp ta tu sửa hành động hay thiết lập được những mối liên hệ lành mạnh nào.

8.  TRÁNH NÓI LỜI PHÙPHIẾM

   Cuối cùng, Đức Phật khuyên chúng ta tập"tránh nói chuyện phù phiếm" trong cuộc sống hằng ngày.  "Nói chuyện phù phiếm" bao gồm nhiều ý nghĩa, trong tiếng Pali đó là samphappalapa

   Theo Đức Phật có sáu loại đối thoại bịliệt kê là chuyện phù phiếm.[34]  Ngài khuyên chúng ta cần nên lưu ý để không phạm vào lỗi này.  Ở đây chúng ta sẽtóm tắt thế nào là nói chuyện phù phiếm hay samphappalapa.

Nói Không Đúng Thời

  Theo Đức Phật, lời nói không hợp hoàn cảnh, không đúng lúc là phù phiếm.  Đức Phật là người luôn nói đúng lúc, hợp thời.  Ngài giải thích rằng, để cho sự trao đổi, đối thoại hoặc góp ý của ta có ý nghĩa, thì ta cần nóiđúng thời (kalavadi).

Nói Dối Hoặc Ba Hoa

   Nói sai sự thật cũng là một hình thức của lời nói phù phiếm.  Phóngđại, thêu dệt tin tức, sự kiện, đàm tiếu, v.v… cũng thuộc lời nói phù phiếm.  Đức Phật dạy rằng muốn thuyết phục người nghe, chúng ta phải trình bày thông tin chính xác (bhutavadi).

Nói Lời Vô Ích

   Lời nói không mang lại lợi ích cho người nói hay người nghe cũng thuộc về loại phù phiếm.  Tự phô trương bằng lời nói, dông dài về chuyện của người, và bàn luận về những đề tài vô nghĩa là vài thí dụ của việc nói lời vô ích.  Ta có thể nói những chuyện này hằng giờ màchẳng học hỏi hay thấy được ý nghĩa gì. Trái với nói lời vô ích là việc sử dụng lời nói có ích, màĐức Phật gọi là atthavadi.

Nói Lời Xúi Giục

   Đức Phật còn thêm rằng việc nói lời khiến người nghe sinh tà ý và hành động sai trái cũng thuộc về samphappalapa.  Việc sử dụng lời nói để lôi kéo, xúi giục người nghe thuộc về loại lời nói phù phiếm.  Những lời nói này có thể làm bại hoại tâm trí người nghe và khêu gợi những tình cảm không lành mạnh nơi người ấy.  Dưới ảnh hưởng nặng nề của những lời nói ấy, người nghe có thể nổi lòng tham, khởi tà ý vàgây ra tội ác.  Đức Phật khuyên chúng ta hãy dùng lời nói để khuyến khích người nghe hướng đến những ý nghĩ và hành động thiện (dhammavadi) thay vì dẫn dắt họ đi theo con đường ngược lại.

Nói Lời Rù Quến

   Giống như nói lời xúi giục người làm chuyện xấu, nói lời rù quến có thể khiến người nghe phạm giới.  Ở đây, Đức Phật cảnh báo cho chúng ta vềsự nguy hiểm của việc sử dụng lời nói như một cách để đưa người nghe vào việc phạm giới.  Lời nói để thuyết phục người nghe phạm giới luật và hình thành những thói quen xấu cũng thuộc vào lời nói phù phiếm. Trái ngược lại là việc sử dụng lời nói để khuyến khích người nghe nâng cao phẩm hạnh (vinayavadi).

Sáo Ngữ & Lời Nói Hời Hợt

   Cuối cùng, khi lời nói được dùng để diễn tả những tư tưởng thiếu sự sáng tạo, sáo mòn và không có chiều sâu, thì chúng không mang lại lợi ích gì cho người nghe, và chúng cũng thuộc vào loại lời nói phù phiếm.  Trái lại,Đức Phật khuyên ta nên dùng lời nói để bày tỏ những quan điểm, tư tưởng quan trọng (nidhanavati vaca).

   Theo Đức Phật, bất cứ lời nói nào thuộc vào sáu loại lời nói trình bày ở trên đều là samphappalapa, hay lời nói phù phiếm.  Những lời nói này vừa vô ích, vừa tai hại, do đó Đức Phật khuyên chúng ta cần phải quán chiếu trước khi mở lời.

TÓM TẮT

   Tám hành động nên tránh được thảo luận trong chương này là những điều thực tập quan trọng trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ.  Mặc dù ba hànhđộng cuối cùng được kể ra ở đây không bao gồm trong Ngũ Giới, nhưng Đức Phật thường xuyên nhấn mạnh sự quan trọng của việc thực tập chúng hằng ngày.  Ngài đề ra những điều luật này vì chúng sẽ giúp người cư sĩ phát triển những hành vi bên ngoài–thân và khẩu- với hết khả năng của họ. Sự phát triển cá nhân, ngược lại, sẽ đóng góp cho sự tiến bộ xã hội.

 


[1]Câu trích từ: Kinh Tập(Sutta Nipata): Phẩm Culla:  Kinh Mangala

[2]Tương Ưng Bộ Kinh V:  Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya; 1796-1799

[3]Kinh Pháp Cú:  Kệ  182

[4]Vimanavatthu Atthakatha:  Rajjumala Vimana

[5]Tăng Chi Bộ Kinh VII:  Phẩm Avyakata:  Kinh Kodhana

[6]Trung Bộ Kinh III: 144:  Kinh Channovada; 1114-1116;  Tương Ưng BộKinh III:  Khandha Samyutta: Kinh Vakkali; 938-941

[7]Kinh Pháp Cú:  Kệ 131

[8]Trường Bộ Kinh I:  5; 133-141

[9]Tăng Chi Bộ Kinh V:  Phẩm Upasaka:  Kinh Gihi

[10]Tương Ưng Bộ Kinh V:  Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya, 1796-1799

[11]Tăng Chi Bộ Kinh I:  Phẩm Cittapariyadana

[12]Tăng Chi Bộ Kinh VIII:  Phẩm Uposatha:  Kinh Dutiyavisakha

[13]Tương Ưng Bộ Kinh V: Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya, 1796-1799

[14]Trung Bộ Kinh I: 41:  Kinh Saleyyaka, 379-385

[15]Trường Bộ Kinh II:  16: Kinh Mahaparinibbana; 231-277

[16]Tương Ưng Bộ Kinh IV: Gamini Samyutta: Kinh Pataliya; 1361-1362

[17]Tăng Chi Bộ Kinh V:  Phẩm Nivarana:  Kinh Mataputta

[18]Trường Bộ Kinh III:  26: Kinh Cakkavattisihanada; 395-405

[19]Tăng Chi Bộ Kinh V:  Phẩm Sona:  Kinh Sona

[20]Tăng Chi Bộ Kinh V:  Phẩm Upasaka: Kinh Gihi

[21]Tương Ưng Bộ Kinh V:  Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya, 1796-1799

[22]Trường Bộ Kinh I: 8;  151-157

[23]Tăng Chi Bộ Kinh V:  Phẩm Aghata:  Kinh Codana

[24]Trường Bộ Kinh III:  31:  Kinh Sigalovada; 461-469

[25]Như trên

[26]Kinh Tập:  Phẩm Culla:  Kinh Mangala

[27]Tăng Chi Bộ Kinh IV:  Phẩm Kesi:  Kinh Kesi

[28]Trường Bộ Kinh III: 31:  Kinh Sigalovada: 461-469

[29]Trung Bộ Kinh III: 101:  Kinh Devadaha;  827-838

[30]Trung Bộ Kinh III: 112:  Kinh Chabbisodana; 903-908

[31]Trung Bộ Kinh III: 101:  Kinh Devadaha;  827-838

[32]Tương Ưng Bộ Kinh V:  Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya, 1796-1799

[33]Trung Bộ Kinh III: 101:  Kinh Devadaha; 827-838

[34]Như trên

(Trích chương 12 sách LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT Về Sự Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội Tỳ Kheo Tiến Sĩ Basnagoda Rahula Chuyển Ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh & Diệu Ngộ MỹThanh 2010)

by Lý Tưởng Người Việt

achtung1(26.10.2012) Hiện nay, tại nhiều cây xăng, bãi đậu xe v.v. ở nhiều nơi khác nhau được phân phát miễn phí đồ treo trên chì khóa (Schlüsselanhänger), các vật trang trí nhỏ cho xe hơi v.v.

Xin đừng nhận những những vật này!!!

Bên trong chúng có gắn chip. Nhờ đó những tên côn đồ có thể theo dõi Quý Vị đến tận nhà, và có thể biết khi nào Quý Vị không có ở nhà. Khi Quý Vị vắng mặt chúng sẽ nhân cơ hội để cạy cửa vào nhà!

Theo sự trình bày của cảnh sát thì hành vi này là của các côn đồ đến từ Rumänien.

Đây là một thể loại côn đồ mới. Và cảnh sát Hòa Lan cũng đã cảnh báo tất cả công dân của họ!

Xin Quý Vị cũng thông báo cho bạn bè và người quen về thông tin này!

............ Nguyên văn ..........................

!!! Eine Warnung an "Alle" !!!

Derzeit werden an vielen Orten ... an Tankstellen oder auf Parkplätzen angeblich kostenlos  Schlüsselanhänger, kleine Schmucksachen für das Auto ... ect. ect. .. angeboten !

Nehmt diese Artikel nicht an !!! Es ist ein Chip darin verarbeitet. Kriminelle Typen verfolgen Euch vom Tanken bis nach Hause, um so auf diese Weise feststellen zu können, wann Ihr zu Hause seid oder nicht.

Wenn Ihr dann abwesend seid, werden sie die Gelegenheit nutzen und einbrechen!

Nach Angaben der Polizei ist diese Art und Weise das Werk von Rumänischen Kriminellen!

Eine neue Art von Kriminalität. Die Polizei in Holland hat "Alle" Bürger vor diesen  Betrügern gewarnt !

Bitte informieren Sie auch Ihre Freunde und Bekannten!

......................

Thông báo này chúng tôi nhận được từ "Schulleiterverband Schleswig-Holstein" (Hiệp Hội các hiệu trưởng trong tiểu bang Schleswig-Holstein) - CĐCG Hamburg

by Lý Tưởng Người Việt

VK-VK-610x320

Tin cập nhật về vụ án Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình thành viên của Tuổi Trẻ Yêu Nước. (www.tuoitreyeunuoc.com) – Ai chủ toạ phiên toà xử người yêu nước?

Kính thưa qúy cô chú bác và các bạn trẻ trong và ngoài nước.

Như qúy vị đã được Tuổi Trẻ Yêu Nước chúng tôi thông tin về  hai thành viên của Tuổi Trẻ Yêu Nước là Trần Vũ Anh Bình và Việt Khang bị cái gọi là "Tòa Án Nhân DânThành Phố" đem ra xử cùng một phiên tòa vào lúc 8:00 sáng ngày thứ Ba 30 tháng 10, năm 2012 tại địa chỉ 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Nghé, Quận I,Thành Phố Sài Gòn.

Nay Tuổi Trẻ Yêu Nước chúng tôi xin cập nhật thêm thông tin về cái gọi là "Tòa Án Nhân Dân Thành Phố"

1.       Ngồi ghế thẩm phán chủ tọa phiên tòa là "phó chánh án TAND thành phố" Vũ Phi Long.

2.       Tuổi Trẻ Yêu Nước chúng tôi khẳng định: cái gọi là "Tòa Án Nhân Dân"  và Vũ Phi Long là công cụ đàn áp hai thành viên Tuổi Trẻ Yêu Nước của nhà cầm quyền độc tài CSVN, nhằm mục đích bức hại tinh thần yêu nước của toàn dân Việt Nam, khi lên tiếng bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương tổ quốc trước họa xâm lấn của Trung Cộng

3.       Tuổi Trẻ Yêu Nước chúng tôi kêu gọi toàn thể đồng bào Việt Nam đừng sợ hải, bằng hành động bằng cách: cô lập, tẩy chay cá nhân và gia đình Vũ Phi Long.

4.       Tham gia biểu tình yểm trợ tinh thần đấu tranh của giới trẻ Việt Nam trước tình trạng độc tài CSVN đang ra sức dùng mọi thủ đoạn đàn áp khốc liệt để tiêu diệt tinh thần đấu tranh của Tuổi Trẻ Yêu Nước, đặc biệt vào ngày 30-10-2012 đối với hai thành viên Tuổi Trẻ Yêu Nước.

Trân trọng thông báo,

Ngày 26-10-2012

Tuổi Trẻ Yêu Nước Hà Nội – Huế – Sài Gòn

http://www.tuoitreyeunuoc.com/ban-tin-khan-so-6-cap-nhat-ve-viec-viet-khang-va-tran-vu-anh-binh-ra-toa-ngay-3010.html