NHÂN ĐỌC BÊN THẮNG CUỘC CỦA OSIN HUY ĐỨC (I)
Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012 by: Lý Tưởng Người Việt
NQL: Tuy có vài điểm ( nhỏ thôi) không đồng tình nhưng mình thích lập luận tươi mới của anh gấu trẻ này.
Nếu chúng ta không thể/ Làm chiếc bút chì màu/ Để vẽ nên hạnh phúc/Cho những người buồn đau.
Thì chí ít, hãy cố/ Làm chiếc tẩy, hàng ngày/ Giúp xóa sạch khỏi họ/ Những nỗi buồn đau này.
(Thơ Thái Bá Tân)
Ngày hôm qua tôi đã đọc xong bản điện tử của quyển một (Giải Phóng) của bộ sách mới của anh Huy Đức với tựa đề Bên Thắng Cuộc gần như liên tục trong vòng 9 tiếng. Chủ đề của cuốn sách, những vấn đề mà nó xem xét cũng là những điều làm tôi suy nghĩ vương vấn trong đầu nhiều năm nay.
Là một nhà báo năng động và thành công ở Sài Gòn trong giai đoạn Việt Nam đổi mới, anh Huy Đức có lợi thế gần như không ai có được ở khả năng tiếp cận với các cá nhân đã từng hoặc vẫn đang là giới chức cao cấp hàng đầu của CHXHCN Việt Nam và các nhân sỹ, trí thức và cựu quan chức của Việt Nam Cộng Hòa. Khả năng ngoại ngữ và góc nhìn hướng ngoại của anh cũng giúp anh gặp gỡ với các nhân vật Mỹ có liên quan tới giai đoạn lịch sử thời chiến tranh Việt Nam. Nhờ những lợi thế này anh Huy Đức đã gom góp được một nguồn sử liệu khổng lồ từ các trao đổi cá nhân thu thập từ chính nhân vật lịch sử. Các thông tin nguồn chính này kết hợp với các nguồn tham khảo đồ sộ mà tác giả sử dụng tạo dựng cho cuốn sách này vị thế của một tác phẩm kinh điển tức thì về lịch sử Việt Nam. Tôi tin rằng hàng chục năm nữa người ta vẫn sẽ còn tiếp tục trích dẫn từ cuốn sách này.
Anh Huy Đức không được đào tạo về những phương pháp hiện đại nghiên cứu và tái dựng lịch sử. Anh cũng không được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp về báo chí mà đã tự học lên từ thực tế công việc. Biết vậy tôi càng cảm phục hơn tinh thần và nỗ lực làm việc nghiêm túc mà tác giả đã đổ vào tác phẩm đồ sộ này. Tôi dễ dàng cảm nhận thấy từ giọng văn bình thản, lối trình bày thông tin, dữ liệu tương đối cân bằng; cách tác giả không sa đà vào phân tích; cách đặt tên các tựa đề và đề mục là tác giả đã bỏ công nghiên cứu cấu trúc và phương pháp viết sử tương đối khoa học của các tác giả Mỹ viết sử Việt Nam như Stanley Karnow (Vietnam: A History), William Duiker (Ho Chi Minh: A Life), Sophie Quinn-Judge (Ho Chi Minh – The missing years). Tôi tin cuốn sách này đã xác lập chắc chắn vị trí của anh Huy Đức trong số những người viết sử Việt Nam hàng đầu
Tôi muốn nhấn mạnh nhận xét về cách tác giả không sa đà vào phân tích. Điểm này đặc biệt ở chỗ nó khác hoàn toàn văn phong báo chí đã trở nên quen thuộc của chính tác giả. Giống phần lớn người viết Việt Nam học và làm nghề viết trong môi trường không đề cao kỹ năng viết, nhà báo Huy Đức có xu hướng mắc phải những lỗi lập luận đơn giản mà một nhà báo phương Tây chịu sự kiểm tra kỹ càng của công chúng ít mắc. Tôi sơ cử ra hai lỗi đã thấy ở anh Huy Đức: một là trích dẫn một nguồn uy tín và coi đó nghiễm nhiên là sự thật và hai là xuất phát từ định kiến có sẵn khai triển lập luận. Tôi cảm thấy vui mừng khi cảm nhận thấy anh Huy Đức đã áp dụng một cách thức trình bày và phân tích thông tin dữ liệu cân bằng, khách quan và bình thản. Cách tác giả đưa ra một lượng thông tin ngồn ngộn rồi để độc giả tự nghiền ngẫm và quyết định cách phân tích và cảm nhận theo tôi là cách tốt nhất khi viết về một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi, chia rẽ, xung đột, và kể cả thù hằn là vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Tuy vậy, sẽ là nhầm lẫn nếu suy luận từ sự thiếu vắng phân tích của chính tác giả trong tác phẩm để cho rằng tác giả không có thái độ cụ thể về chủ đề của tác phẩm. Thái độ của tác giả là gì trong trường hợp này là một thứ ý tại ngôn ngoại. Trong hoàn cảnh hiện nay ở Việt Nam, gần như tất cả các vấn đề mà tác giả đề cập đến (cải cách ruộng đất, học tập cải tạo, cải tạo tư sản, vượt biên có bảo lãnh) vẫn còn là những vấn đề cấm kỵ bị tránh né (dù nhiều điều đã là các bí mật mở). Việc tác giả tấn công trực diện từng vấn đề, nêu đích danh tên từng nhân vật, nhiều người vẫn còn sống còn quyền sinh quyền sát thể hiện một thái độ dũng cảm đáng kính trọng của tác giả. Sự dũng cảm này còn được thể hiện trong việc tác giả lựa chọn tự xuất bản sách qua kênh cá nhân như cách tuyên bố về sự độc lập, sự tự chịu trách nhiệm. Đây cũng là một sự cẩn trọng cần thiết đối với một người viết độc lập để giữ được uy tín với công chúng nhằm chống lại những buộc tội vô cớ chắc chắn sẽ đến về việc tác giả bị mua chuộc bởi các thế lực. Thái độ của tác giả trong trường hợp này có thể được so sánh như ý đồ của một nhiếp ảnh gia trưng bày ra một hình ảnh tĩnh của thực tại. Mỗi góc nhìn, mỗi chi tiết được nhấn mạnh, dưới ánh sáng nào, mầu sắc ra sao vv đều được tính toán kỹ và có lý do. Mỗi người chắc sẽ có cảm nhận khác nhau về thái độ của tác giả. Ấn tượng của tôi là về một thái độ tôn trọng sự thật rất đáng cảm phục và học tập.
Khi nhắc đến thái độ tôn trọng sự thật rất "đáng học tập" của tác giả, tôi đã để lòi ra một cái đuôi về một xuất thân giống với tác giả là cùng lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. "Đáng học tập" hay "đáng biểu dương" hay "nêu gương" là những lời lẽ định hình chỉ trong môi trường thi đua phấn đấu của trường học xã hội chủ nghĩa. Sự tương đồng này dẫn dắt tôi đến một điểm khác đáng chú ý là việc tác giả là một trong số rất ít những người từ "bên thắng cuộc" đưa ra một góc nhìn khác về chiến tranh. Thời nay là lúc lý tưởng cách mạng trong xã hội Việt Nam ta đã nhạt nhòa và người ta không phải quá o ép lời ăn tiếng nói vì thế từ người bình dân tới cán bộ cao cấp ai ai cũng có thể nói những lời xét lại về quá khứ mà không sợ bị trừng phạt. Tuy thế việc viết ra một cách có hệ thống các quan điểm xét lại này vẫn là điều không được chấp nhận. Một vài người viết như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Dương Thu Hương với các suy tư về ngày 30/4/1975 đã gặp rắc rối vì các quan điểm xét lại. Để Huy Đức – một người lớn lên trong xã hội ưu việt miền Bắc, từ nhân dân cần lao mà ra, được giáo dục từ trong trứng nước về tư tưởng anh hùng xã hội chủ nghĩa và tính tất thắng của phe ta, lại từng là lính chiến đấu phụng sự sự nghiệp cách mạng cao đẹp – viết được một tác phẩm xét lại thế này cần một nỗ lực lớn hơn nhiều lần so với một học giả nước ngoài hay "phe họ". Để một cá nhân đã được lập trình cho quen với vị thế tiện lợi của người chiến thắng, người đúng, phe chính nghĩa phải suy nghĩ lại, phải phân tích duy lý về vị thế đó và nếu thấy cần thì rời bỏ nó đòi hỏi những hoàn cảnh, hiểu biết, tính cách cá nhân nhất định. Một yếu tố quan trọng cần có nhưng khó có ở miền Bắc là óc tư duy phê bình. Những người như anh Huy Đức, như tôi, như thế hệ của chúng tôi lớn lên chỉ được tiếp xúc với thông tin một chiều và sự thật một chiều. Sự thật được đóng gói sẵn, cần là có, rất tiện lợi và ngon lành, việc gì mà phải đi tìm ở đâu nữa? Trong cái hang của Plato được giữ đóng và kín này thì lấy đâu ra hạt giống cho những suy tư khác, cho sự nghi ngờ về việc có tồn tại một thế giới khác bên ngoài hang? Cái nỗ lực của con kén phải rùng mình chui ra khỏi cái vỏ kín tối thực sự là đau đớn. Ngoài ra việc anh Huy Đức mới chỉ là cậu bé 13 tuổi khi kết thúc chiến tranh không có trải nghiệm trực tiếp trong cuộc chiến nhưng vẫn chuyển mình đủ để sau này trình bày gẫy gọn, súc tích, bình thản về những nỗi buồn chiến tranh là một tấm gương tôi thấy đáng học tập.
Trở lại câu hỏi về hạt giống nào của sự thật, trong hoàn cảnh như thế nào đã khởi động quá trình một người thắng cuộc bắt đầu nghi ngờ về vị thế siêu việt của mình. Tôi cho rằng hạt giống của sự thật thường đến trong hình hài của những mâu thuẫn. Suy nghĩ này làm tôi nhớ đến câu cách ngôn đại ý nếu cứ nói thật thì khỏi cần phải nhớ đã nói gì. Trong thực tế cuộc sống thì những thứ không phải là sự thật hoặc chỉ là sự thật một chiều – tôi định nghĩa là thứ sự thật quy ước cục bộ – sẽ bị thách thức khi không gian quy ước cục bộ bị phá vỡ. Sẽ xuất hiện những bằng chứng về sự mâu thuẫn giữa những thứ không phải sự thật, sự thật cục bộ, quy ước với những sự thật toàn cục kiểm chứng được. Những bằng chứng mâu thuẫn sẽ khiến người ta xem xét lại hệ thống niềm tin sẵn có của người ta. Nhưng trên thực tế để đi từ chỗ bắt đầu xem xét tới chỗ có niềm tin mới là một quá trình rất dài lâu và khó khăn, càng khó hơn trong môi trường thiếu thông tin có sự kiểm soát, áp đặt tư tưởng.
Đối với anh Huy Đức, Dương Thu Hương và cả tôi những bằng chứng mâu thuẫn đầu tiên đến từ chính bên thua cuộc. Những gì chúng tôi được dạy về họ không giống những thứ chúng tôi quan sát được ở họ. Anh Huy Đức, trong tác phẩm này, vừa trực tiếp vừa định hướng, đã đưa ra một số lượng khổng lồ các bằng chứng loại này. Mỗi người đọc có thể tự suy ngẫm và so sánh với niềm tin riêng của mình. Sự thay đổi về niềm tin nếu có phải là một hành trình cá nhân.
Mười tám năm trước có lần tôi tranh luận mười mấy tiếng đồng hồ với một người bạn nước ngoài về vấn đề học tập cải tạo sau chiến tranh. Người bạn đó có một người bạn Việt Kiều ở Thụy sỹ tên là Loan; cha cô Loan đã đi học tập hơn 10 năm. Người bạn tôi nói rằng việc tập trung cải tạo giam giữ lâu dài như thế là không cần thiết và vô nhân đạo. Tôi, bên thắng cuộc, nói rằng người chiến thắng đã hy sinh quá nhiều để giành chiến thắng và có quyền bảo vệ chiến thắng đấy. Bảo vệ chiến thắng bằng cách cho đối phương học tập cải tạo là lựa chọn tử tế và nhân đạo hơn so với việc giết họ đi. Tôi cũng nói đám người vượt biên là đám ô nhục bỏ tổ quốc ra đi vì lý do kinh tế. Cuộc tranh luận bất phân thắng bại kết thúc bằng việc hai bên không ai chịu ai đều khóc. Sau khi lớn lên được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin và nhân vật lịch sử của cả hai bên, được đọc nhiều sách vở bằng ngoại ngữ, rồi được qua Mỹ học về hành chính và qua đó thu thập được những công cụ phân tích cơ sở, tôi đã dần dần tự luận ra được nhiều điều. Giờ đây nhiều năm sau tôi tự cảm thấy đã có những niềm tin khác cân bằng và ôn hòa hơn. Là người sinh ra sau chiến tranh, gia đình không mất ai trong chiến tranh, hiện không hoạt động chính trị hay tham gia đảng phái nào (tôi cũng chỉ có một đảng là đảng Việt Nam), dựa trên những hiểu biết tự thu thập và xử lý, với tuyên bố rằng không ai mua chuộc hay ép buộc tôi, tôi nói nhân danh cá nhân tôi rằng những gì đã xảy ra, đặc biệt trong thời hậu chiến, như anh Huy Đức đã kể ra rành mạch trong tác phẩm này của anh, quả thực là quá oan ức và đau khổ cho miền Nam. Vì điều đó nhân danh chỉ cá nhân tôi, tôi muốn được xin lỗi.
Theo blog FB của AGP
BÀI HAI
Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc'
Nguyễn Giang
Mốc thời gian quan trọng: Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975
Khi tin 'giải phóng miền Nam' lan đến một vùng quê Hà Tĩnh, một cậu bé còn chơi với bạn ở ngoài ruộng và bọn trẻ đã 'buông nhau ra thôi không đánh vật' nữa, nhưng cuộc giằng co chọn lối đúng và sai cho cả một dân tộc hóa ra mới chỉ bắt đầu và còn chưa kết thúc.
Với cậu bé chăn trâu ngày đó mà nay thành danh với cái tên blogger Osin, hành trình vào đời và nghiệp làm báo cũng bắt đầu từ tháng 4/1975 khi sự 'nhận mặt nhau' diễn ra có triệu người vui và triệu người buồn của hai miền Nam Bắc Việt Nam sau cuộc nội chiến quốc tế hóa.
Khi được đọc bản thảo 'Bên Thắng Cuộc' (cả hai tập), tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là 'Bên Thắng Trận' với cả sự oai hùng, hào khí cách mạng như truyền thông chính thống vẫn nêu?
Có phải trận chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một cuộc cờ và trận chiến vì tâm hồn và tương lai Việt Nam vẫn chưa dứt?
Những suy luận đến từ cuốn sách chắc sẽ còn nhiều, vì chỉ trong vòng vài tuần qua, số bài bình luận về cuốn 'Bên Thắng Cuộc' đã xuất hiện đông đảo với đầy đủ những lời khen nhưng cũng có một số ý phê bình, đa số tôn trọng và không gay gắt.
Vì thế nên ở đây, tôi chỉ chia sẻ một số cảm quan riêng và tập trung vào những gì tôi nghĩ rằng sách đã gợi mở ra và tạo đà cho những người viết trong và ngoài nước đi tiếp.
Trước hết, cuốn sách mổ xẻ khá rành mạch, chi tiết và làm mới lại nhiều giai đoạn lịch sử, biến cố, sự kiện quan trọng trong một thời kỳ cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1975 đến Đổi Mới.
Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.
"
Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc"
Sau đó là các diễn biến của thời kỳ đánh tư sản, tiêu diệt văn hóa, văn nghệ tự do, quy kết loại trừ tư bản Hoa kiều, cưỡng bức kinh tế mới, cho tới cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng thời gian các nỗ lực duy chí ý nhằm áp đặt mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp trên cả nước, đưa đến các thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.
Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam.
Qua các chương đó, người đọc dù thuộc các thế hệ sau có thể hình dung ra được khá rành mạch vì sao sự mê tín với một mô hình độc tôn đã khiến lãnh đạo Đảng cầm quyền ở Việt Nam liên tiếp sai lầm mà các di chứng vẫn còn đang là chính sách hiện hành dù đã được bớt liều nhờ tác động khách quan và sự tự ý thức.
Dòng đời trong lịch sử
Cách viết 'sử ký' di chuyển từ bối cảnh lịch sử chung đến hoạt động của các nhân vật chính đã dựng lại nhiều hình ảnh sống động nhờ số lượng phong phú các tư liệu nguồn mà tác giả ghi lại hoặc phỏng vấn trực tiếp với nhiều nhân chứng, người trong cuộc ở cả các cấp cao.
Cuộc đời riêng, hoạt động và suy nghĩ, tính toán cá nhân và chính trị của các ông Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ...được tái hiện rõ rệt.
Chuyện tình yêu, hôn nhân, gia đình vợ con họ được kể lại, ghi lại vừa đủ để phụ thêm cho các hiểu tính cách, các bước ngoặt trong đời những nhân vật này trong bối cảnh xã hội, lịch sử mà không sa đà vào chuyện riêng tư.
Chẳng hạn cuộc tình và cuộc đời làm vợ thứ nhì của ông Lê Duẩn mà bà Nguyễn Thụy Nga phải gánh chịu cho thấy một giai đoạn mà văn hóa chính trị cộng sản rất hà khắc, thậm chí tàn khốc với việc riêng của tất cả mọi người, kể cả những nhân vật cao cấp, ngược hẳn với thời kỳ tung hê, thả cửa của quan chức hiện nay.
Một cách nhìn khác xuyên qua những tư liệu quý mà Huy Đức thu lượm và tìm cách kiến giải là dòng 'sinh hoạt quân sự'.
Ông Võ Văn Kiệt đến hội nghị sơ kết Thanh niên Xung phong năm 1981 ở Đắc Nông
Lồng vào các chiến dịch tiến vào Sài Gòn năm 1975, chiến tranh biên giới Tây Nam, xung đột Trung – Việt, hay đi ngược về thời kỳ kháng Pháp, chiến tranh Mỹ – Việt là các chân dung sỹ quan, tướng lĩnh, nhân chứng của nhiều phía.
Các trận đánh, các cuộc ra quân, những vụ thảm sát, tàn phá của quân Pol Pot, quân Trung Quốc được mô tả bằng ngòi bút của người làm báo, viết phóng sự nên sống động hơn nhiều so với các cuốn tiếng Việt từ trước tới nay về cùng chủ đề mà tôi được đọc.
Các vụ 'thâm cung bí sử' trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động.
Cuộc đời và các suy tư của ông Võ Văn Kiệt mà tác giả có thời gian gặp gỡ nhiều cũng được trình bày lại khá đầy đủ, cho người đọc cơ hội thấy được chân dung một nhân vật cộng sản miền Nam luôn trăn trở để càng về cuối đời lại càng về gần với tinh thần dân tộc.
Nhân chứng và tư liệu
Đã có người khác đã bình luận về phương pháp viết của Huy Đức, gồm cả phần được và phần thiếu sót nên ở đây, tôi chỉ muốn chú ý đến cách sử dụng tư liệu của tác giả để tạo dựng bối cảnh quốc tế hoặc khu vực cho phần nội dung Việt Nam của anh.
Giai đoạn viết về cuộc cách mạng dân chủ Đông Âu và Liên Xô sụp đổ không phải là phần mạnh nhất của tác giả.
Nhà báo Huy Đức và TBT Lê Khả Phiêu: bản thân tác giả là nhân chứng của nhiều sự kiện lịch sử
Huy Đức chủ yếu sử dụng lời kể của tiến sỹ Lê Đăng Doanh về chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sang Đông Đức, cuộc gặp Erich Honecker, Mikhail Gorbachev và Nicolai Ceaucescu và tư liệu của Bùi Tín đã xuất bản khá lâu để dựng lại 'cú sốc thể chế' mà perestroika và glasnost gây ra cho ban lãnh đạo Hà Nội.
Sang để 'chấn chỉnh' lãnh tụ phe cộng sản quốc tế Gorbachev về đường lối xét lại, ông Linh đã cảm lạnh, sốt và ốm (theo cả nghĩa đen và bóng?) khi gặp sự hắt hủi, coi thường của 'đồng chí đàn anh' - dấu hiệu Hà Nội bị Đông Âu bỏ rơi nên dần tìm sang ngả Trung Quốc.
Nhưng cũng vì dựa trên các trích dẫn đó là chính, nhiều lý giải về Đông Âu trong sách không theo kịp các tác phẩm xuất bản tại khu vực này hoặc sách của các tác giả Phương Tây trong 10 năm qua.
"Khi được đọc bản thảo 'Bên Thắng Cuộc', tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là 'Bên Thắng Trận' với cả sự oai hùng, hào khí cách mạng? "
Nguyễn Giang
Về sự dính líu và cuộc tháo chạy của người Mỹ khỏi Đông Dương, quan hệ Mỹ – Trung về Campuchia cuốn sách cũng dùng quá nhiều luận điểm của nhân vật nổi tiếng thiên kiến và thiên hữu, ông Henry Kissinger trong cuốn 'Ending the Vietnam War' (2003), thiếu hẳn các cuốn mới hơn về Trung Quốc như 'Inside Ten Episodes of China's Diplomacy' (2006) của Tiền Kỳ Tham.
Các đoạn về quan hệ Trung Xô hoặc Trung Mỹ hay vai trò chỉ đạo của Moscow với Hà Nội trong nhiều thập niên cũng thiếu nhiều phần đối chiếu từ các sách mới mà giới nghiên cứu Âu Mỹ liên tiếp đưa gia thời gian qua như cuốn 'Revolution 1989: The Fall of the Soviet Empire' của Victor Sebestyen (2009) hay 'Russian's Cold War' của Jonathan Haslam (2012).
Nói như thế không phải là để phê phán cuốn sách đầy đủ nhất từ trước tới nay về chính trị Việt Nam mà để bạn đọc Việt Nam tin tưởng rằng chủ đề 'hệ thống cộng sản' vẫn được giới khoa bảng quốc tế theo đuổi, cập nhật, và trong dòng sách này Bên Thắng Cuộc chắc chắn là một hồ sơ quan trọng nếu được dịch ra ngoại ngữ.
Phần trong nước, tác giả cũng sử dụng khá nhiều các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam để ghi nhận các bước tiến và lùi trong chính sách.
Nhưng vì ở Việt Nam luôn có khoảng cách khá lớn giữa ngôn từ văn bản với chính sách áp dụng thực và kết quả cuối cùng nên cách làm này dù cần thiết cho giới cần tra cứu, lại dễ khiến bạn đọc bình thường có cảm giác bội thực của một thời phải ăn độn bo bo.
Trái lại, khi đi xa văn kiện, ngòi bút báo chí tinh tế đã giúp tác giả giải mã được chiến lược 'pháo đài huyện' mà các con đẻ của nó vẫn đang lãnh đạo đất nước ngày hôm nay.
Xé rào: ông Trường Chinh thăm nhà máy bột giặt Viso năm 1983
Nào ai nghĩ chính phong trào ông Lê Duẩn tung ra nhằm gây dựng cán bộ trẻ từ huyện để đẩy thẳng lên trung ương hồi đó, theo Huy Đức, đã tạo đà cho ông Nguyễn Tấn Dũng từ huyện Cà Mau, tỉnh Minh Hải hay bà Trương Mỹ Hoa từ huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang và một số nhân vật khác lên cao.
Chính cách để các nhân vật thật tái hiện trong ánh sáng mới của lịch sử và tư liệu khiến 'Bên Thắng Cuộc' không nằm vào dạng tác phẩm nghiên cứu academic mà giống ký sự hay non-fiction biographic history tựa như của Simon Sebag Montefiore trong 'Stalin: The Court of the Red Tsa' hay 'Jerusalem: The Biography'.
'Bên Thắng Cuộc' còn nhiều phần phát hiện thú vị khác về 'người trong cuộc' mà tôi tin là bạn đọc sẽ đánh giá cao, và nếu những gì tác giả viết ra có gây dư luận khen chê hay tạo ra tranh luận thì cũng là điều tốt vì đã lâu người đọc tiếng Việt chưa có trong tay một bộ sách đầy đủ, chân thực và nhiều tính gợi mở như thế về đất nước họ.
Và nếu vì đọc 'Bên Thắng Cuộc' mà có các tác giả khác nung nấu muốn viết thêm, viết lại, viết tiếp về chủ đề Việt Nam thì hẳn cũng là một thành công 'ý tại ngôn ngoại' cho tác giả.